
Sông núi nước Nam (Nam quốc sơn hà) (?)
Chính tả:
Nam Quốc Sơn Hà
Nam Quốc Sơn Hà Nam Hoàng Đế,
Tuy nhiên, thanh trùng tự nhiên trong phường[1].
Như một sự vi phạm của cuộc xâm lược lỗ,
Anhydrous hoạt động như một tàu bị hư hỏng bất khả chiến bại.
dịch:
Vua phương nam ở trong sông núi phương nam,
Các quy định về ranh giới được viết rõ ràng trong sách trời.
Tại sao các bạo chúa dám tấn công?
Chúng bay chờ xem, tất sẽ bị hạ gục.
Dịch thơ:
Ở sông núi nước Nam, sống vua nước Việt,
Sách trời chia đất.
Tại sao kẻ thù lại đến đây?
Chúng ta phải tan vỡ.
(Lê Thước, Nam Trân)
Sông núi phương nam, vua phương nam ở,
Biết số phận của bạn trong cuốn sách trên trời.
Tại sao kẻ thù dám xâm lược?
Họ sẽ bay và bị đánh bại.
(Hoàng Xuân Hãn)
[1] Chỉ có sách Thượng Thư hay Kinh Thư (là bản Thượng Thư do Khổng Tử trình bày). Trong Thượng Thư đại truyện có chuyện Việt Thường Thị giao hảo với nhà Chu, cống nộp chim trĩ.
Tương truyền, năm 1077, hơn 3 vạn quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy tiến đánh Đại Việt. Lý Thường Kiệt lập phòng tuyến trên sông Như Nguyệt (sông Cầu) để chặn giặc. Quân Quách Quỳ đánh đến sông Như Nguyệt thì bị chặn đánh. Tại đây đã diễn ra nhiều trận đánh ác liệt nhưng quân Tống không chọc thủng được phòng tuyến Như Nguyệt đành phải hạ trại chờ viện binh. Nửa đêm, Lý Thường Kiệt cho người vào đền Trương Hống, Trương Hát, phía nam sông, giả thần, ngâm bài thơ trên. Nhờ vậy, tinh thần binh lính lên rất cao. Lý Thường Kiệt lập tức cho quân vượt sông, tổ chức đánh quyết định vào doanh trại giặc. Phần vì bất ngờ, phần vì khích lệ tinh thần quân Việt, quân Tống chống cự ít, tử thương quá nửa. Lý Thường Kiệt lập tức cử quân sang hòa hoãn, mở đường cho quân Tống rút về nước, giành lại giang sơn, giữ lãnh thổ Đại Việt. Một số người coi bài hát này là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của Việt Nam.
Bài hát này trong truyền thuyết của hai anh em Trương Hống, Trương Hát. Có tài liệu gắn truyền thuyết này với Lý Thường Kiệt trong cuộc chiến chống quân Tống năm 1076, sớm nhất là Việt điện u linh (Lý Tế Xuyên thời Trần), sau đó là nhiều sách sử khác, như Đại Việt sử ký toàn thư. , Việt sử tiêu án v.v., chép. Trong khi đó, sách Lĩnh Nam Chích Quái (Trần Thế Pháp đời Trần) kể lại truyền thuyết này với cuộc chiến đầu tiên của Lê Đại Hành chống quân Tống thời Tiền Lê năm 981, với nội dung như sau:
S
S
S
S
Nam Quốc Sơn Hà Nam Hoàng Đế,
Hoàng Thiên được chỉ định trong Thiên Thư.
Khi Hà Bắc Hồ Chí Minh tấn công,
Bách nhận phiên bẻ tre còn sót lại.
(Ở sông núi nước Nam có vua nước Nam.
Đây là ý định của Đức Chúa Trời trong sách thiên đàng.
Vì sao giặc phương bắc sang xâm lược,
Thanh kiếm ánh sáng sẽ cắt tất cả các ngươi thành từng mảnh như tre.)
Ngoài ra, bài hát có hơn 30 phiên bản được ghi lại trong các sử sách và sách khác nhau.
I. Đọc – hiểu văn bản:
Câu hỏi 1: Dựa vào lời giới thiệu sơ lược về thể thơ thất ngôn tứ tuyệt ở phần chú thích để xác định thể thơ của Sông Nước Nam về số câu, số chữ trong câu, gieo vần.
câu thơ thứ 2: Sông núi nước Nam được coi là bản tuyên ngôn độc lập bằng thơ đầu tiên của nước ta. Vậy Tuyên ngôn Độc lập là gì? Nội dung tuyên ngôn độc lập trong bài thơ này là gì?
câu hỏi 3: Sông núi nước Nam là bài ca về sự biểu đạt (bày tỏ quan điểm của mình). Vậy nội dung đó được thể hiện ra sao? Nhận xét về dáng vẻ và biểu cảm đó?
câu hỏi thứ 4: Ngoài biểu cảm, sông Nam, núi còn có biểu cảm (bộc lộ cảm xúc)? Nếu vậy, trong điều kiện nào? (lộ, ẩn). Hãy giải thích tại sao bạn lại chọn trạng thái đó?
Câu 5: Qua các cụm từ “thiên mệnh”, “mệnh tại trời”, “mệnh trời”, “tay ngang đã bại”, hãy nhận xét về giọng điệu của bài thơ.
* Nhớ:
Nam quốc sông núi (Nam quốc sơn hà) được coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên trong lịch sử khẳng định chủ quyền của Việt Nam. Trên hết là giọng văn hùng hồn, đanh thép, thể hiện quyết tâm đánh thắng kẻ thù và lòng tự hào dân tộc ta. |
II. BÀI TẬP
Nếu bạn thắc mắc tại sao bạn không nói “Nam Đế Sống” mà lại nói “Nam Đế sống” (Nam Đế Sống) thì bạn giải thích thế nào?
* Viết bài:
Sông núi nước Nam (Nam quốc sơn hà)
(?)
Câu hỏi 1:
Nguyên văn bài thơ Nam quốc sơn hà là một bài thơ chữ Hán làm theo thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật:
– Bốn câu, mỗi câu bảy chữ.
– Vần ở cuối câu 1, 2, 3.
câu thơ thứ 2:
– Tuyên ngôn Độc lập là bản tuyên ngôn về quyền lợi của một quốc gia và khẳng định không một thế lực nào vi phạm.
Nội dung Tuyên ngôn độc lập gồm hai ý:
+ Khẳng định chủ quyền, nước Nam thuộc về nước Nam (hai câu đầu): Tác giả khẳng định nước Nam thuộc về nước Nam. Đây là điều được viết trong “thiên sách” (sách trên trời). Tác giả dùng đến cuốn sách về bầu trời vì người xưa vẫn coi bầu trời là đấng tối cao. Người Trung Quốc cổ đại coi mình là trung tâm của vũ trụ nên vua của họ được gọi là “đế” và các nước chư hầu nhỏ hơn được gọi là “vương” (vua của các nước nhỏ). Trong bài thơ này, tác giả cố tình dùng từ “Nam Đế” (vua nước Nam) để ngụ ý có thể so sánh ông với “Hoàng đế” của cả nước Trung Hoa rộng lớn.
+ Kẻ thù không được xâm phạm (hai câu tiếp theo): Ý nghĩa của lời tuyên bố còn thể hiện ở chỗ chắc chắn rằng nếu kẻ thù xâm phạm quyền tự quyết này của nước ta, tất yếu sẽ bị tiêu diệt.
câu hỏi 3:
– Hai câu đầu: chủ quyền quốc gia.
+ Nam vương ở sông núi, phương nam ở, cũng có nghĩa là phương bắc ở nam vương. Quốc vương đó là nước nào. Điều hiển nhiên là không ai được xâm phạm ai → chân lý của cuộc sống.
Trong đời sống tinh thần của người Việt và người Hoa. Trời là đấng uy nghiêm tối cao, sắp đặt và quyết định mọi việc. Lãnh thổ của vua nước Nam và dân nước Nam được định trong Thiên Sách – nghĩa là không ai được phép trái đạo → lẽ trời đất.
Như vậy, việc đòi chủ quyền dựa trên chân lý của cuộc sống, chân lý của trời đất, dựa trên quy luật. Chủ quyền nước Nam là không thể tranh cãi, không thể chối cãi.
– Hai câu cuối: quyết tâm bảo vệ chủ quyền.
+ Vì sao giặc kéo sang xâm lược là câu hỏi của những kẻ dám làm điều bất nghĩa, “lỗ hư”, dám xâm phạm đến lòng dân, đạo trời.
+ Họ sẽ phải chứng kiến tận cùng của thất bại.
– Nhận xét về Bố cục: Bố cục rất chắc chắn như một bài văn. Hai câu đầu nêu chân lý khách quan, hai câu cuối nêu vấn đề hệ quả của chân lý đó.
câu hỏi thứ 4:
– Dòng sông Nam Nước là một bài thơ nên tuy thiên về biểu cảm nhưng vẫn có cái biểu (biểu cảm, cảm xúc) ẩn chứa trong một ý. Vì tác giả không bộc lộ cảm xúc một cách trực tiếp. Người đọc phải suy nghĩ mới thấy được tình cảm yêu nước mãnh liệt thể hiện trong đó.
– Qua các cụm từ: “tự nhiên”, “mệnh tại trời”, “hãn khánh thu bại” ta thấy giọng điệu thể hiện khí phách hào hùng, tinh thần bất khuất của dân tộc.
Câu 5:
Bài thơ có giọng điệu mạnh mẽ, hùng hồn:
– Đi tìm chủ quyền qua “sách trời” tức là sự thật không thể phủ nhận.
– Cảnh báo kẻ thù khi chúng phạm tội chắc chắn sẽ mang đến cái chết.
II. BÀI TẬP
Nếu bạn thắc mắc tại sao bạn không nói “Nam Đế Sống” mà lại nói “Nam Đế sống” (Nam Đế Sống) thì bạn giải thích thế nào?
Sở dĩ không nói “Nam đế cư ngụ” mà lại nói “Nam vương cư ngụ”, vì nói “Nam đế” là một cách khẳng định đất có sông núi, đất có chủ quyền. Không có chủ quyền thì không thể có “hoàng đế”. Hơn nữa, ngày xưa các vua Trung Quốc chỉ coi nước mình là nước lớn và tự xưng là “đế quốc”, còn phương nam ta cũng như các nước chư hầu chỉ là nước nhỏ, vua chỉ được gọi là “vua” là “Nam đế” một cách làm cho chúng ta thấy đất nước bình đẳng, có chủ quyền như Trung Quốc.
Giá kinh (Xưng giá hoàn kinh)
(Trần Quang Khải)
Chính tả.
Khen ngợi đạo sư hoàn chỉnh
bắt một con sóc[1] Chương Dương Độ,
Cầm Hồ[2] Hàm Tử Quan.
Taiping đang cố gắng hết sức đó,
Bên ngoài khu khám cổ san.
dịch:
Cướp giáo địch ở bến Chương Dương,
Bắt quân Hồ ở cửa Hàm Tử.
Trong hòa bình, bạn nên làm hết sức mình,
(Rồi) muôn đời (có) giang sơn này.
Dịch thơ:
Chương Dương cướp giáo giặc,
Hàm Tử bắt giặc.
Hòa bình nên được theo đuổi,
Non nước ngàn thu.
(Trần Trọng Kim)
[1] Nó có thể được phiên âm là “sóc” hoặc “sáo”, đều có nghĩa là ngọn giáo.
[2] Kể từ thời nhà Hán, Trung Quốc thường xuyên bị rợ Hồ – một số tộc người ở vùng biên giới phía Bắc – đến quấy rối. Trong thơ cổ Trung Quốc và Việt Nam, “Hồ” là danh từ riêng, nhưng thường được dùng để chỉ bọn ngoại xâm nói chung.
Ngày 6 tháng 6 năm Đinh Dậu 1285, sau khi đánh đuổi quân Thoát Hoan, giải phóng kinh thành Thăng Long, Trần Quang Khải rước hai vua nhà Trần về kinh, hộ giá và làm bài thơ này.
I. Đọc – hiểu văn bản:
Câu hỏi 1: Xin tham khảo phần giới thiệu sơ lược về thể thơ thất ngôn tứ tuyệt ở phần chú thích để nhận diện thể thơ của Bài ca về số câu, số chữ và vần.
câu thơ thứ 2: Nội dung thể hiện ở hai câu đầu và hai câu cuối của bài thơ có gì khác nhau? Nhận xét về cách diễn đạt và diễn đạt của bài thơ.
câu hỏi 3: Bài thơ Kinh của Phổ Gia và Bài ca sông núi nước Nam có gì khác nhau?
* Nhớ:
Bài hát ra đời trong không khí hào hùng, ngất ngây và men say vinh quang chiến thắng. Nó thể hiện trí tuệ của một nhà cầm quân biết lo việc lớn, phấn đấu cho đất nước thái bình thịnh trị. |
* Viết bài:
Giá kinh (Xưng giá hoàn kinh)
(Trần Quang Khải)
Câu hỏi 1:
Tụng giá Hoàn Kiếm, nguyên văn chữ Hán viết theo thể năm chữ lớn Đường Lỗ.
Toàn bài gồm 4 câu thơ.
Mỗi câu có 5 từ.
– Vần vần: Các chữ cuối câu 2 và câu 4 gieo vần.
câu thơ thứ 2:
Nội dung của bài hát
– Hai câu đầu: Chiến công hào hùng của dân tộc.
– Hai câu tiếp: Lời động viên dựng nước và niềm tin vào sự trường tồn bền vững của đất nước.
Với hình thức diễn đạt cô đọng, kìm nén cảm xúc vào ý tứ bài thơ Phò giá về kinh đã thể hiện tinh thần hiếu thắng và khát vọng thái bình, thịnh trị của dân tộc ta thời Trần.
câu hỏi 3:
Từ ngữ và cách diễn đạt trong bài kinh của Phò Gia và bài Nam Sơn Ca giống nhau. Đó là, ý tưởng được thể hiện rõ ràng, không hoa mỹ một cách đau đớn; Cảm xúc được thể hiện một cách kín đáo thông qua ý tưởng.
Luyện tập.
Cách nói giản dị, ngắn gọn của bài thơ này có tác dụng thể hiện tinh thần hiếu thắng, cầu hòa của dân tộc ta thời Trần:
– Nói một cách giản dị và đi vào trọng tâm, tác giả đã cho ta thấy hai vấn đề quan trọng của đất nước: hậu quả của chiến tranh và thời điểm đất nước trở lại với hòa bình.
– Bài ca thể hiện tinh thần Đông A (thời Trần): đây là một trong những đặc điểm tinh thần nổi bật của quân dân Đại Việt đầu thời Trần – đó là tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc và quyết tâm quật cường của nhân dân ta .