
Cảm nhận 4 câu thơ cuối của Tương tư Nguyễn Bính
Nguyễn Bính là nhà thơ lãng mạn nổi tiếng của Việt Nam. Ông được coi là nhà thơ của làng quê Việt Nam với những bài thơ mang sắc thái dân dã, mộc mạc. Trong khi hầu hết các nhà thơ trong phong trào thơ mới chịu ảnh hưởng của thơ ca phương Tây thì Nguyễn Bính lại bám sát và tiếp thu những tinh hoa của ca dao, dân ca, truyện thơ dân gian cả về nội dung và hình thức. Thơ ông diễn tả cảnh thôn quê, chan chứa tình quê, hồn quê Việt Nam với sắc thái lãng mạn. Người ta gặp nhau trong những hình ảnh quen thuộc, bình dị trong thơ Nguyễn Bính: hàng cau, cây trầu, khóm, bưởi, thôn Đoài, thôn Đông. Hoài Thanh, trong Thi nhân Việt Nam, cho biết Nguyễn Bính đã viết gần một nghìn bài thơ ở tuổi 20. Nguyễn Bính sử dụng nhiều thể thơ, thể thơ nhưng thành công nhất là thể thơ lục bát. Trong những vần thơ “Bỗng thấy vườn cau là tình tự nhiên của tôi”, tôi cảm nhận được một điều quý giá vô cùng, đó là “hồn xưa của đất”.
Tương Tư của Nguyễn Bính là một trong những bài thơ hay viết về tình yêu. Cuối bài thơ, nhà thơ đặt một câu hỏi mà người đọc, những ai đã từng yêu không khỏi ngậm ngùi:
“Tôi có rất nhiều thiết bị ở nhà
Nhà tôi có một hàng cau giữa các gian
Thôn Đoài nhớ thôn Đông
Anh ở xứ Đoài, nhớ làng nào giàu không?”
Đoạn thơ trên là một đoạn trích trong bài thơ “Tuổi Tử”, trích trong tập thơ “Thất bước ngang” (1940) của nhà thơ Nguyễn Bính. Bài thơ gồm 20 câu lục bát; 16 câu đầu nói về nỗi buồn, nỗi nhớ nhung, sự trách móc, tiếc nuối: “Tình yêu cách bao xa?”… 4 câu cuối thể hiện niềm khao khát tha thiết của chàng trai về tình yêu hạnh phúc với cô gái trẻ. những phụ nữ khác cùng làng.
Cấu trúc song đối đối xứng, bốn câu thơ liên kết thành hai cặp, liên kết với nhau rất hồn nhiên, tự nhiên như định mệnh giữa nhà anh và nhà em, giữa anh và em, giữa thôn Đoài và thôn Đông, giữa tăm tối và giàu sang. Giọng hát thì thầm ngọt ngào như khát khao, khát khao, khao khát. Từ chỗ danh xưng “cô”: “Yêu là bệnh của anh, anh yêu cô” chuyển thành “em” gần gũi, thân mật và tràn đầy tình yêu thương: “Nhà anh giàu có trang bị…” Cách xưng hô của từ ngữ “ Tôi” – “cô” dần đến “họ” – “anh” ngày càng gần gũi, ân cần và đầy yêu thương.
Giàu (trầu cau) đã vững bền từ ngàn xưa, nên nay có sự tương giao tương hợp như một thiên đường đẹp lạ thường:
“Tôi có rất nhiều thiết bị ở nhà
Trong nhà tôi có một hàng cau.”
Điệp ngữ “nhà… có một” làm cho ý thơ đồng điệu với sự khẳng định về sự tồn tại hai mặt. Dù “hai làng chung một thôn” không xa lắm, nhưng “giàn giầu” và “hàng cau tương tư” của gia đình tôi vẫn ở hai bên không gian. Nhà anh và nhà em chỉ là “một” chứ không phải cặp nào khác. Lời một trong hai câu rất hay, nó thể hiện ước vọng về một cặp đôi hạnh phúc: duyên giàu – cau cũng là đôi bền chặt, tận tụy, thủy chung.
Trong bài Tương tư, Nguyễn Bính sử dụng nhiều câu hỏi tu từ để nói lên nỗi buồn của mối tình “mãi không nguôi”: Bên ấy sao không về bên này? Xa sao mà yêu xa? Biết cho ai, hỏi ai, ai biết? Khi nào thì bến tàu gặp thuyền? Và khép lại bài thơ, chàng trai tự hỏi mình trong ước mơ và hi vọng:
“Thôn Đoài nhớ thôn Đông
Bạn có nhớ làng nào giàu không?”
Cả một trời nhớ, không chỉ mình nhớ, nó nhớ mà còn có “Thôn Đoài nhớ thôn Đông”. Khung cảnh ấy còn đan xen gợi nhớ: “Làng có nhớ làng nào giàu”? Cách nói hùng hồn, rất tế nhị, duyên dáng, dũng cảm. Tôi tự hỏi và thừa nhận nó với bạn. Câu hỏi tu từ có cấu trúc lược bỏ thể hiện tình cảm chân thành đối với lời cầu chúc may mắn. Ước mơ đó là của con người.
Đoạn thơ thể hiện vẻ đẹp đặc sắc của thơ tình Nguyễn Bính. Tác giả vận dụng một cách sáng tạo các chất liệu văn học dân gian như giầu – cau, thôn Đoài – thôn Đông, những câu lục bát giàu vần điệu, nhạc điệu để diễn tả niềm khao khát tình yêu và hạnh phúc của đôi lứa. Nồng nàn, tình quê. “Tình” thấm đẫm nỗi buồn, nhưng cái kết lại mở ra một chân trời hy vọng.