
Cảm nhận bài hát Quê hương của Tế Hanh (từ góc độ thơ ca)
Bài thơ Quê hương được viết năm 1939, khi Tế Hanh đang học ở Huế, nhớ quê hương – một làng chài ven biển. Bài thơ trích trong tuyển tập Ngôn (1939) và sau in trên báo Hoa Niên (1945). Tác phẩm mang đến một bức tranh tươi sáng và sinh động về một làng quê ven biển. Nó có một hình ảnh mạnh mẽ và tràn đầy năng lượng của một ngư dân và cảnh các hoạt động đánh bắt cá. Điều này thể hiện tình cảm quê hương trong sáng, chân thành của nhà thơ.
Cái nhìn nghệ thuật trong bài thơ Quê hương là cái nhìn về quá khứ, tái hiện lại kí ức và cách thể hiện của tác giả. Vì vậy, bức chân dung quê hương được tác giả vẽ nên với những nét tiêu biểu, nổi bật nhất, ghi đậm dấu ấn, đậm nét và tạo nên ấn tượng mạnh mẽ, thiết tha trong nỗi nhớ, niềm thương của tâm hồn thi nhân.
Theo cách nhìn nghệ thuật như vậy, cấu trúc nghệ thuật của quê hương được thể hiện ở ba điểm nhìn tương ứng với ba phần của bài thơ. Điểm nhìn thứ nhất là nét vẽ khái quát thể hiện làng em, một bức tranh ấn tượng với những chi tiết đặc trưng như đánh cá, vùng sông nước xung quanh, cách biển, sông nửa ngày đường…, nhấn mạnh nét độc đáo của làng quê. nghề nghiệp, đặc điểm địa lý và khoảng cách ra biển:
Ngôi làng nơi tôi sống ban đầu là một làng chài:
Bao bọc bởi nước, cách biển nửa ngày đường.
Điểm nhìn khác trong điểm nhìn thể hiện ở kết cấu là điểm nhìn về quê hương, tâm hồn và tinh thần của quê hương trong tự sự, miêu tả và bộc lộ cảm xúc. Điểm nhìn này bao gồm các chi tiết nghệ thuật theo trình tự, diễn biến theo trục thời gian nghệ thuật suốt ngày đêm, bắt đầu từ tờ mờ sáng hôm nay cho đến tờ mờ sáng hôm sau:
Khi trời trong, gió hiu hiu, buổi sáng hồng
Nam thanh niên đi thuyền đánh cá.
Thuyền nhẹ như ngựa
Phang mái chèo, khỏe vượt căng.
Cánh buồm to như hồn làng
Vươn ra một cơ thể to lớn màu trắng để đón gió…
Đây là cảnh đầu tiên của một ngày chèo thuyền ở một góc nhìn khác. Trong không gian của biển, nổi bật lên vẻ đẹp mạnh mẽ, tự tin và đầy nhiệt huyết của những chàng trai trẻ với con thuyền và cánh buồm. Cảnh thứ hai trong khung nhìn này là kết quả của một ngày đánh cá:
Ngày hôm sau, tiếng ồn trong bãi đậu xe
Dân làng tấp nập đón thuyền trở về.
“Ơn trời biển lặng thuyền đầy cá”,
Cá tươi có thân màu trắng bạc.
Người đánh cá giăng lưới để xem làn da rám nắng,
Toàn thân hít thở hương vị xa xăm;
Thuyền êm ru mỏi quay về nằm
Lắng nghe cách muối thấm vào da.
Điểm nhìn thứ ba là nỗi niềm nhớ quê hương da diết của nhân vật trữ tình. Về điều này, tác giả khẳng định tấm lòng luôn nhớ nhung, da diết nỗi nhớ quê hương, đặc biệt khẳng định những nét tiêu biểu của quê hương như màu nước trong xanh, đàn cá bạc, cánh buồm bằng lăng, con thuyền quay đầu. mùi mặn đã in sâu trong nỗi nhớ, trong nỗi nhớ da diết của tác giả:
Giờ xa rồi lòng mãi nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, buồm vôi,
Cho thuyền vượt sóng ra khơi,
Tôi nhớ mùi rất mặn.
Giai điệu của bài hát đầy tự hào và nghiêm túc. Bởi hình ảnh quê hương mà trở về trong kí ức luôn là kí ức, mà kí ức về quê hương với nghề đánh cá giữa biển khơi, âm điệu quyện vào nhau hòa quyện một cảm xúc tự hào khôn nguôi trong tâm trí. nhịp điệu hăng say, mạnh mẽ, sôi nổi của những chàng trai trẻ làm nghề đánh cá ngày ngày ra khơi đánh cá. Theo đó, ngôn ngữ thơ cũng được xây dựng, hài hoà giữa hai trường từ: cảm xúc nhớ nhung, yêu thương và vẻ đẹp của con người quê hương. Một tập hợp từ ngữ giàu hình ảnh tượng hình, giàu cảm xúc đã làm nổi bật những con người làng tôi gắn liền với những thứ cũng đẹp đẽ và mạnh mẽ: người tuấn tú, thuyền nhẹ như ngựa, mái chèo khỏe khoắn. .
Mặt trời và hơi ấm của hương vị phương xa ấy đã mang đến cho làng quê một khung cảnh mới sinh động, tươi vui: ồn ào, náo nhiệt, đầy cá, cá tươi.
Tác giả sử dụng ngôn từ đặc biệt sáng tạo để tạo nên những bức chân dung người và cảnh sinh động. Tức là miêu tả ngôi làng được bao bọc bởi nước, cách biển nửa ngày đường theo sông, là cách nói nửa ngày đường là ven sông, để diễn tả vùng xa biển, đồng thời cũng là cách nói. dân làng nói, như vậy vừa mới lạ, văn vừa gọi được những nét đặc sắc của quê hương mình. Mặt khác, các phép tu từ như so sánh, ẩn dụ, nhân cách hóa, cường điệu táo bạo mới tạo nên những cảm xúc riêng về quê hương, chẳng hạn so sánh cánh buồm to như một mảnh hồn làng; ẩn dụ chuyển cảm giác – vị thay vì khứu giác – tôi thực sự nhớ mùi mặn; nhân hóa: con thuyền im lìm, trở về nằm/ Nghe chất muối thấm dần vào vỏ; cường điệu và chuyển hóa cảm giác của người đánh cá: toàn thân bốc mùi xa xăm…
Tóm lại, thi pháp của ca dao quê hương, từ góc nhìn, kết cấu, không gian, thời gian, giọng điệu, ngôn từ đều được tạo dựng trên cơ sở hình ảnh làng quê được tái hiện trong nỗi nhớ thương, kính yêu. , tác giả thân mến. Chính vì vậy, những đặc điểm nghệ thuật và ý niệm về quê hương đã tác động to lớn, sâu sắc đến tình cảm, tư tưởng của người đọc, giúp họ không chỉ thêm yêu làng chài quê hương của nhà thơ mà còn hiểu và yêu quê hương mình hơn.