
Cảm nhận hình tượng người phụ nữ trong xã hội phong kiến qua văn học dân gian và văn học trung đại
Đất Việt Nam – xứ sở của những lời ru ngọt ngào, xứ sở của những cánh cò trắng tung bay, xứ sở của bàn tay mẹ bao năm trao quà… và từ cội nguồn phong phú ấy mà chủ thể là người phụ tá tài năng không bao giờ cạn kiệt của các cảm hứng của các nghệ sĩ, qua nhiều thời đại khác nhau. Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam hiện diện trong nhiều vị trí của cuộc sống và đã để lại nhiều hình ảnh sắc nét trong thơ ca hiện đại. Nhưng đáng tiếc thay, trong xã hội phong kiến, người phụ nữ lại phải chịu một số phận éo le, éo le:
“Nỗi đau cho thân phận đàn bà
Nghe đồn bạc mệnh cũng là chung số phận.”
(Truyện Kiệu – Nguyễn Du)
Đoạn thơ trên xuất hiện nhiều lần trong sáng tác của đại thi hào Nguyễn Du như một điệp khúc đau đớn. Thảo nào phụ nữ miền núi phàn nàn “Thân tôi chỉ là thân con bọ ngựa, thế thôi”, đàn bà miền xuôi than khóc như ong kiến. Điều này không phải là cường điệu mà nó được thể hiện khá thường xuyên trong văn học Việt Nam, trong Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương, trong Truyện Mãn Lục Truyện Kiều Nguyễn Du, đoạn trích kẻ chinh phục ướt sũng (Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm)…
Thần thoại Hy Lạp nói: “Chúa lấy vầng trăng tròn, những đường cong của dây leo, sự rung rinh của hoa cỏ, sự mềm mại của cói, màu sắc tươi sáng của bao phấn, nhịp điệu nhẹ nhàng của lá. , cảm giác nhẹ nhàng của vòi voi, ánh mắt đăm chiêu của con nai, đàn ong, ánh sáng mặt trời, nỗi buồn của đám mây, luồng gió dao động, sự rụt rè của một đứa trẻ, con nai hoang dã, sự huy hoàng của con công, hình dáng mượt mà của chim ưng, độ cứng của kim cương, vị ngọt của mật mía, hơi lạnh của băng tuyết , sự dễ thương của uyên ương mang đến tất cả. Cô ấy đã trộn nó lên và tạo hình thành một người phụ nữ.” Có thể nói, người phụ nữ là biểu tượng của cái đẹp. Nhưng trong thời đại phong kiến trọng nam khinh nữ, đầy bất công thì người phụ nữ phải chịu nhiều cay đắng, bất công nhất. Tuy nhiên, những người phụ nữ này luôn xinh đẹp, dịu dàng, tràn đầy tình yêu thương và lòng nhân hậu. Có thể thấy chúng qua nhiều tác phẩm văn học dân gian và trung đại Việt Nam.
Những người phụ nữ xuất hiện trong văn học ngày xưa thường là những người phụ nữ đẹp. Từ ngoại hình đến tính cách. Họ đều đẹp, nhưng mỗi người có một vẻ đẹp khác nhau, mỗi cơ thể có một vẻ riêng. Đang làm việc”bánh trôi” của họa sĩ Hồ Xuân Hương, thể hiện bức tranh thiếu nữ”vừa trắng vừa tròn.” một người đầy đặn, tròn trịa. Cô mang vẻ đẹp chân chất, mộc mạc, vô tư mà mộc mạc, tự nhiên nhưng không kém phần quyến rũ, với làn da trắng mịn màng. Đó là vẻ đẹp của người con gái đảm đang hay làm việc, đầy sức lực của người con gái quê. Tôi cũng đã thấy một người phụ nữ như vậy xuất hiện “Chuyện người con gái Nam Xương“ của Nguyễn Du. Vũ Thị Thiết như một cô gái “Bánh nước của tôi”là người phụ nữ đảm đang, chịu khó,… khiến Trương Sinh phải lòng và bỏ ra trăm lạng vàng để rước nàng về làm dâu.
Từ gái quê chân chất đến con bà đài các “Tư tư duy thường bình” Tất cả đều đẹp đẽ và quý giá. Như Thúy Vân và Thúy Kiều trong tác phẩm lớn của Đại thi hào Nguyễn Du “Truyện Kiều”, là hai thiếu nữ cành vàng lá ngọc, tài sắc vẹn toàn”.bộ xương, tinh linh tuyết“. Tuy mỗi người một vẻ, nhưng đều vô cùng xinh đẹp, thanh nhã yểu điệu như cành mai, tâm hồn trong trắng như băng tuyết, thanh cao tao nhã, cao quý…
Họ là những người phụ nữ xinh đẹp như vậy, nhưng tiếc thay họ lại sống trong một xã hội phong kiến thối nát với bộ máy quan lại thối nát, chế độ nam quyền bóp nghẹt vận mệnh của họ. Càng xinh đẹp, họ càng đau khổ, càng phải chịu đựng nhiều áp bức, bất công. Như một quy luật khắc nghiệt của thời đại “Hồng nhan bạc phận”. Số phận của Vũ Nương thật đau đớn biết bao! Chỉ vì muốn con được vui, bớt buồn và vui vẻ khi sống một mình nuôi con mà chị đã đi lấy chồng. bóng tối, nói với tôi đó là bố. Nhưng cô không thể ngờ rằng chính điều đó đã gây cho cô bao nhiêu bất hạnh, tủi nhục, bị chồng nghi oan, dì phải dìm xuống sông! với cô, để thanh minh cho mình, không còn cách nào khác. Cô ấy cũng đi theo con đường đó! Giá như xã hội này có một chút công bằng, giá như lời nói của một người phụ nữ có giá trị thì tai nạn này đã không xảy ra. Cô không phải chịu cay đắng, không phải dùng nước sông rửa sạch nỗi nhục do chồng mình áp đặt.
Số phận người phụ nữ xưa nay chịu nhiều bất công, bất hạnh. Bị vu khống, bị nghi ngờ mà không thể giãi bày, không thể thanh minh cho mình. Số phận của họ ở thế bị động, phải phụ thuộc vào người khác – những người đàn ông chỉ lấy phụ nữ làm trò tiêu khiển, tiêu khiển. Họ không kiểm soát số phận của mình:
“Thân em như giọt mưa
Hạt giống đi vào hang, hạt giống đi vào cánh đồng.
– “Thân em như lụa đào
Chập chờn giữa chợ biết vào tay ai”
Cá nhân phụ nữ xót xa với câu mở đầu nổi tiếng “Em yêu của tôi…”. Phận đàn bà, có lúc như “mưa”, có lúc như “lụa đào”… Dù con người có đồng hóa với điều gì thì người phụ nữ cũng chịu chung số phận đau khổ, ưu phiền. Họ không biết mình sẽ sống ra sao, sẽ bị dòng đời xô đẩy, trôi dạt về đâu? Anh ấy sẽ sống hạnh phúc trong “đài phát thanh” hoặc làm việc chăm chỉ ở đó “đất cày”? Đối với họ, cuộc sống trước mắt vô cùng tăm tối, không biết chuyện gì sẽ xảy ra, họ sẽ ra sao”vào tay ai?…Đôi khi lấy phải một ông chồng vô dụng, người phụ nữ nhu nhược sẽ phải chịu nhiều thiệt thòi.
Trong văn học trung đại Việt Nam khi viết về người phụ nữ, một mặt vẫn kế thừa di sản tư tưởng văn học dân gian, nhưng mặt khác “Hồng nhan bạc mệnh” cũng được coi là tư tưởng chủ đạo của tác giả. Vũ Nương trung hiếu, dũng cảm, thủy chung bị nghi ngờ ngoại tình, đến mức phải chấp nhận cái chết để minh oan – nhưng khi chết đi, nàng vẫn mang nỗi oan đó trong lòng.Chuyện Người Con Gái Nam Xương – Nguyễn Dữ).
Xinh đẹp, tài năng, khát khao hạnh phúc, nhà vua đã bỏ rơi nàng, sống cô độc, mệt mỏi, chết cóng trong cung cấm, chôn vùi tuổi thanh xuân trong thâm cung.Cung oán ngâm khúc – Nguyễn Gia Thiều). Một người phụ nữ có mong muốn hoàn toàn bình thường là được sống bên người chồng yêu dấu của mình, nhưng lại rơi vào cảnh “sống dở chết dở” đau đớn, mòn mỏi chờ đợi không biết ngày nào gặp lại. (Người Đàn Bà Đắm Chìm – Đặng Trần Côn). Nàng Kiều Nguyễn Du xinh đẹp, tài giỏi nhưng bị chôn vùi trong cảnh “Gấp đôi chiều dài, gấp đôi cách chữa”, bị hành hạ liên tục cả về thể xác lẫn tinh thần, chỉ để rồi phải thốt lên (thực sự là đầu hàng trước hoàn cảnh) rằng: “Thân lươn chui đầu/ Chút thơ ngây sau lưng xin tha!”. Đây không chỉ là bi kịch của riêng Kiều mà còn là bi kịch chung của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Mặt khác, văn học trung đại Việt Nam bước đầu phản ánh quan niệm về con người cá nhân trong xã hội. Nhiều nhân vật nữ thời kỳ này cũng tỏ ra phản kháng, lên án xã hội cũ, nêu lên nhiều suy nghĩ, thái độ chống lại thái độ của xã hội phong kiến (thơ Hồ Xuân là tiêu biểu nhất). Mùi). Văn học nói riêng đã chú ý đến việc bộc lộ nội tâm nhân vật. Các tác giả Nguyễn Dữ, Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương… khi miêu tả người phụ nữ thường để nhân vật bộc lộ trực tiếp nỗi khổ tâm, nỗi niềm riêng tư (tự nhận thức). :
“Nỗi đau của đàn bà khá là chia xa
Người ta nói bạc mệnh cũng là chung số phận”.
(Truyện Kiệu – Nguyễn Du)
hoặc hiển thị các phản ứng sau đây:
“Kẻ đắp chăn kẻ lạnh
Chém cha lấy chồng chung thân”.
(Cùng Hôn Nhân – Hồ Xuân Hương)
Có thể nói, cảm giác hụt hẫng và khát khao hạnh phúc là hai tâm trạng, tình cảm phổ biến nhất của nhân vật nữ trong văn học trung đại Việt Nam. Cả đất nước Việt Nam trong thời kỳ phong kiến bị kìm kẹp bởi những nghĩa vụ đen tối, hà khắc và tàn ác. Và nói chung, số phận người phụ nữ không thể vượt ra khỏi giới hạn của hoàn cảnh xã hội. Trong thơ, họ hiện lên như những kiếp người nhỏ bé, bất hạnh. Nàng Kiều tài sắc vẹn toàn mà cuộc đời lênh đênh 15 năm; Hồ Xuân Hương khát khao hạnh phúc mãnh liệt nhưng suốt đời chán chường số phận “có ý nghĩa”, “sống chung”… Rồi còn rất nhiều phụ nữ cùng chung số phận tại Piano Việt Nam lúc bấy giờ.
Phụ nữ càng xinh đẹp, càng tài giỏi bao nhiêu thì càng bất hạnh, đau khổ bấy nhiêu. Lý do tại sao không có phản hồi vào thời điểm đó. Và chính vì thế câu thơ của Nguyễn Du là một bài thơ “cặp bạc” chơi cho mọi người “một đời hồng nhan bạc mệnh”.
Ngày nay, người phụ nữ đã chiếm một vị trí quan trọng trong gia đình và xã hội. vì xã hội”định kiến giới tính“đã bị bãi bỏ và thay thế bởi xã hội”công bằng, bình đẳng, nam nữ bình quyền“. Nhưng không vì thế mà người phụ nữ Việt Nam mất đi vẻ đẹp thuần phong mỹ tục vốn có mà vẫn giữ được phẩm chất, nét đẹp truyền thống. Điều đặc biệt hơn là họ có cá tính mạnh mẽ hơn, dám triệt để đấu tranh cho hạnh phúc, cho quyền lợi của mình mà phấn đấu “Làm tốt công việc trong gia đình”
Có người đã nói: “Phụ nữ là một nửa thế giới”. Và quả thực, chúng đã đi vào những trang văn hiện tại của những trang văn trước đây, để không chỉ một nửa mà cả bức tranh toàn cảnh trong sâu thẳm lòng người đọc hôm nay và mai sau.
“Chị em tôi tỏa nắng vàng lịch sử
Nắng cho đời cũng phải là nắng cho thơ.”
Quan niệm về thời gian trong văn học trung đại