
Cảm nhận nỗi nhớ chân thành của người đã khuất đối với thiên nhiên và con người Việt Bắc
Nỗi nhớ da diết của một người ra đi với thiên nhiên, con người Việt Bắc và cuộc sống đời thường trong thời kỳ kháng chiến. Trong 6 câu thơ đầu (25-30) nhà thơ đã bày tỏ nỗi nhớ da diết sâu sắc với người đã khuất trước vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên Việt Bắc:
Nhớ gì như nhớ người yêu?
Trăng đầu núi, nắng chiều.
Nhớ từng bản khói sương
Sớm khuya bên bếp lửa người thương trở về.
Nhớ từng rừng trúc
Suối Lệ đầy
Tôi đi, tôi nhớ những ngày
Đây đó, cay đắng và ngọt ngào…
Cả ba cặp câu lục bát đều bắt đầu bằng một từ được ghi nhớ nghiêm túc. Sắc thái và mức độ của nỗi nhớ được miêu tả bằng một so sánh ngọt ngào, sâu sắc: Anh không nhớ gì bằng nhớ người yêu.
Nhớ người yêu là một nỗi nhớ ám ảnh, thường trực, khôn nguôi, day dứt, một nỗi nhớ đôi khi mãnh liệt đến phi lý mà Xuân Diệu cảm nhận: “Uống đã khát là thương – Gặp nhau nhớ là thương. là nỗi nhớ khiến chính anh ngỡ ngàng Whoa: “Lạ thay, vẫn bên em – Nhưng anh vẫn nhớ em, vẫn muốn gặp em”. Có thể coi đây là phép so sánh thể hiện sắc thái đặc biệt nhất và cao độ nhất của nỗi nhớ con người. Qua sự so sánh ấy, Tố Hữu đã bộc lộ tình cảm gắn bó, nỗi nhớ da diết với mảnh đất và con người Việt Bắc.
Và có lẽ chính sự liên tưởng ngọt ngào với tình yêu ấy đã khiến cho những bức tranh thiên nhiên sau này của Việt Bắc cũng thấm đẫm hương sắc của tình yêu. Từng khung cảnh Việt Bắc trong mọi thời gian, không gian hiện lên nối tiếp nhau, bất chợt trong nỗi nhớ của người lữ khách: Việt Bắc khi nên thơ ánh trăng bạc nhô đầu núi, khi xa dần ấm áp nắng chiều trên lưng. , có lúc mơ hồ huyền ảo giữa khói sương và nhất là luôn chan chứa yêu thương bởi sự quấn quýt với hình ảnh người khi sớm khuya bên bếp lửa người thương đi về…
Nếu như ở câu thơ đầu, con người Việt Bắc chỉ hiện ra trong nỗi nhớ của người yêu, thì ở câu thơ này họ đã thực sự trở thành người tình trong lòng người đi kẻ về. Cảnh vật ở Việt Bắc, dù có tên như sông Thia, sông Đáy, suối Lê hay không tên như bờ tre, rừng trúc… đều in đậm nỗi nhớ của người ra đi, cạn khô dẫu cho sông suối đôi khi đầy. Từ “nhớ” và điệp ngữ “nhớ” được lặp đi lặp lại nhiều lần trong bài ca dao cho thấy nỗi nhớ da diết của người qua đường không chỉ đối với những cảnh vật cụ thể, quen thuộc mà là nỗi nhớ bao trùm, trọn vẹn về mọi kỉ niệm. Cái gì thuộc về Việt Bắc.
Thấp thoáng hình ảnh núi rừng ở đoạn văn trên, ở câu thơ tiếp theo (31-42), người Việt Bắc được trực tiếp đưa lên qua nỗi nhớ da diết về cuộc sống thường nhật thời kháng chiến:
– Anh đi đây, em có nhớ ngày nào không?
Suối mưa lũ, mây có sương?
Anh về rồi, em có nhớ chiến khu không?
Miếng cơm chấm muối, lời lẽ nặng lời?
Em về, núi nhớ ai?
Đầy mai rụng, mai già
Anh đi đây, em có nhớ nhà không?
Khăn xám mờ, son đầy
Em về em vẫn nhớ núi
Tôi nhớ khi tôi chống Nhật, khi tôi còn ở Việt Minh
Anh đi rồi, em có nhớ anh không?
Tân Trào, Hồng Thái, cây đa mái đình?
Về việc trả lời câu hỏi nghiêm túc của người dân Việt Bắc: “Tôi có nhớ những ngày tôi đi không?” Người cưỡi ngựa nói: “Em đi anh nhớ tháng ngày”, và ngay sau đó là lời giải thích chân thực, cảm động về nỗi nhớ: “Ở đây và ở đó, cay đắng và ngọt ngào”. Họ đã ở bên nhau suốt mười lăm năm ấy, từ kháng chiến chống Nhật thời Việt Minh đến những năm kháng chiến chống Pháp, họ kề vai sát cánh, cùng nhau chia sẻ bao đắng cay ngọt bùi. nguồn suối lũ, lau sậy, mây đến bát cơm chấm muối, cãi nhau nặng lời, cùng nhau viết nên những trang sử hào hùng, vẻ vang ở Tân Trào, Hồng Thái… Những ngày tháng ấy đã tạo nên sự gắn kết, thấu hiểu, lòng trắc ẩn. Và đó chính là nguyên nhân của nỗi nhớ da diết của người ra đi và người ở lại.
Mở đầu toàn bài nói về nỗi nhớ, là từ xót xa, rồi quá khứ lại hiện ra với niềm đau thương:
Ta yêu nhau chia sẻ củ sắn
Sẻ nửa bát cơm, đắp chăn su su.
Sắn… khó khăn, thử thách không chỉ bằng sức mạnh của lòng dũng cảm mà còn bằng sức mạnh của tình yêu thương. Các động từ chia sẻ… chia sẻ… chia sẻ với nhau đã thể hiện tình cảm cảm động giữa người dân Việt Bắc với bộ đội, cán bộ, họ sẻ chia từng miếng ăn cho nhau từ cái đói cho đến hơi ấm trong đêm lạnh. Tình yêu đã cho họ sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng, tình yêu cũng là cội nguồn sâu xa nhất của nỗi nhớ và lòng trung thành.
Hình ảnh cuộc sống vất vả, nghèo khó, gian khổ của người dân Việt Bắc trong những công việc hàng ngày thầm lặng đóng góp cho cách mạng và kháng chiến đã trở thành nỗi nhớ da diết trong lòng người lữ khách:
Thương nhau, sẻ củ sắn về
Sẻ nửa bát cơm đắp chăn sui
Người mẹ nắng cháy da mất tích
Những đứa trẻ bị trói trên cánh đồng, bẻ từng cái lõi ngô.
Đoạn thơ miêu tả một hình ảnh cụ thể, quen thuộc trong cuộc sống thường ngày của cư dân Việt Bắc: Mẹ địu con cùng nhau ra đồng làm việc. Hai thanh điệu liên tiếp trong cụm từ “nắng cháy” mang ý nghĩa ẩn dụ không chỉ gợi một mảng trời nắng, gợi những tia nắng gay gắt đốt cháy lưng người, mà còn khiến cho câu thơ như có một nỗi đau nhói, xót xa. Câu thơ tiếp theo có tới ba động từ: Vác… lên… cúi như thể hiện sự vất vả, dằn vặt của người mẹ Việt Bắc nhưng đổi lại thành quả lao động chỉ là những bắp ngô nhỏ bé, gầy guộc. Không gian lao động khắc nghiệt và sự tương phản giữa công việc và kết quả cho thấy sự khó khăn của những con người trong cuộc sống lao động phục vụ kháng chiến, càng làm tăng thêm sự ngậm ngùi và khâm phục trong lòng người lữ khách. .
Những người đã khuất không chỉ nhớ về những hình ảnh nghèo khó, gian khổ mà những kỷ niệm đẹp đẽ, thân thương, về cuộc sống thanh bình, thơ mộng của núi rừng thời chiến tranh đều in đậm trong tâm trí họ. Nỗi nhớ lớp học – những hình ảnh xúc động về phong trào bình dân học vụ, xóa nạn mù chữ ngày đầu kháng chiến; Hình ảnh ấy gợi lên chính tả không rõ ràng, nét chữ còn vụng về, sự say mê, phấn khởi của người dân miền núi khi được học những chữ của cách mạng, của Bác Hồ trong tiết học tranh thủ thời gian. Nỗ lực và phấn đấu:
Nhớ lớp và giấy
Đêm khuya đuốc soi giờ vui
Nỗi nhớ còn tìm về những đêm liên hoan vui vẻ giữa các chiến sĩ Việt Bắc với cán bộ kháng chiến, nhớ từ tiếng hát đường đèo trang nghiêm đến ánh đèn ngoài đồng lung linh rộn ràng trong đêm:
Bạn có nhớ ngày đại lý không?
Đời vẫn hát vượt núi khó.
Nhớ tiếng chim gáy rừng chiều
Ban đêm, cối và chày được phân bố đều…
Khung cảnh bình dị, quen thuộc của cuộc sống núi rừng còn hiện ra trong những âm thanh rất gợi cảm của rừng chiều, của tiếng chày trong đêm, của rừng xa của tiếng suối… Cảm giác bình yên, thanh thản, bình yên. một chút hoang sơ, thể hiện tình cảm sâu nặng, nỗi nhớ da diết và nỗi lo buồn của người đã khuất đối với cuộc đời và con người ở chiến khu Việt Bắc.