
Cảm nhận thân phận của người phụ nữ trong xã hội xưa qua “Cẩm tú Vị Ương” (Đoàn Thị Điểm) và “Độc Tiểu Thanh Ký” (Nguyễn Du)
Trong Chinh phụ ngâm (Đoàn Thị Điểm dịch) có đoạn:
“Cạnh đê chắn sóng, nước trong như lọc,
Đường bên cầu còn non.
Cho anh một trái tim đầy đau khổ,
Bộ được làm bằng nhựa với một chiếc thuyền.
Dòng nước trong veo trôi bao nỗi buồn chưa gột rửa,
Cỏ xanh thơm khó quên.
Nói và ngay lập tức lấy lại,
Tiến lên một bước và khâu áo cho anh ấy…”
Trong Truyện Kiều (Nguyễn Du) cũng có đoạn:
“Kẻ cưỡi ngựa, kẻ chia ô,
Những cây phong và rừng cây mùa thu được sơn màu quýt.
Một dặm bụi bặm của vùng đất hòa bình,
Có vẻ như hàng ngàn quả việt quất đã chết.
Anh trở lại với ngôi sao năm cánh,
Một người đi ngàn dặm một mình.
Tháng sẽ chia thành hai phần,
Gối đôi, nửa dặm soi trường…”
Cảm nhận của anh/chị về cuộc chia ly trong hai đoạn thơ trên. Từ đó, em có suy nghĩ gì về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ?
* GỖgợi ý bài tập về nhà:
1. Cảm giác chia ly trong hai câu thơ:
Một. Giới thiệu ngắn về tác giả, tác phẩm và 2 đoạn văn:
b. Nêu những điểm giống nhau giữa hai tác giả Đặng Trần Côn và Nguyễn Du trong hai đoạn văn về: đề tài, hoàn cảnh sáng tác, gặp gỡ ở hình thức trân trọng, thương cảm phụ nữ.
c. Làm nổi bật sự khác biệt (tiêu điểm): hai đoạn văn đều viết về những tình cảm riêng biệt nhưng tùy theo chủ đề của tác phẩm, tùy theo quan điểm, cách nhìn của mỗi tác giả (và người dịch – đoạn 1) mà mỗi tác giả có một cách thể hiện, nội dung, sắc thái khác nhau khiến cho vẻ đẹp, đặc điểm độc đáo khác nhau:
* Ý nghĩa nội dung:
– Đoạn 1: nó cho thấy một kẻ chinh phục đưa chồng mình ra trận. Tác giả đã khắc họa sâu sắc tâm trạng của người chinh phụ trong buổi lễ chia tay với bao lưu luyến, day dứt không muốn rời xa.
Tặng anh một trái tim buồn
Một bộ trí tuệ bằng nhựa.
– Đoạn văn bản 2: Nguyễn Du tập trung miêu tả nỗi đau chia ly khi Kiều nhìn thấy Thúc Sinh ở nhà với vợ. Cũng có nhiều cảm giác bất an trong lần định chia ly này, bởi thân phận của nó chỉ thoáng qua một chút nên cuộc chia ly không chỉ nhuốm màu “quan san” tê tái mà còn như một nỗi ám ảnh chia ly. , khiến sự ra đi của Thức “thanh thản”
Người cưỡi ngựa, thợ xẻ,
Những cây phong và rừng cây mùa thu được sơn màu quýt.
Một dặm bụi bặm của vùng đất hòa bình,
Có vẻ như hàng ngàn quả việt quất đã chết.
* Nghệ thuật biểu cảm:
– Đoạn 1:
+ Ngòi bút tả cảnh ngụ tình, hình ảnh so sánh ước lệ được dịch giả Đoàn Thi chuyển tải bằng ngôn ngữ thơ trong sáng, uyển chuyển, khắc sâu tâm trạng của người chinh phụ trong buổi lễ chia tay.
+ Nỗi nhớ nhung, xao xuyến của kẻ chinh phục được thể hiện ở nhiều góc độ: tâm hồn, dáng vẻ, cử chỉ:
Nói và ngay lập tức lấy lại,
bước sang một bên để đan áo cho anh ấy…
– Đoạn văn bản 2:
+ Nguyễn Du cũng viết nên cảnh ngụ tình nhưng thiên nhiên cũng nhập vai nhân vật, âm thầm sẻ chia biết bao đau thương, tủi hổ: “Rừng phong thu thắm màu quýt”.
+ Nguyễn Du chỉ có một câu để miêu tả “Kẻ ngồi lên ngựa, kẻ chia bào”. Câu thơ sáu tám được chia làm hai vế, trong sự tương phản giữa kẻ ấy với người ấy dường như chứa đựng biết bao niềm thương cảm mà Nguyễn Du dành cho cảnh ngộ của nàng Kiều. Khi Thúc lên ngựa cũng là lúc Kiều trở thành kẻ cô đơn, lạc lõng trên đường…
+ Nguyễn Du cũng vận dụng thành công hình ảnh quen thuộc trong ca dao để làm nổi bật hoàn cảnh lẻ loi, lẻ loi của Thúy Kiều:Vầng trăng của ai chia lìa…”
d. Tổng quan:
– Cả hai đoạn văn đều kín đáo thể hiện cái nhìn nhân đạo sâu sắc và thái độ phê phán hiện thực đương thời:
+ Nỗi đau chia ly trong Nho giáo là tình trạng không được tôn trọng. Từ nỗi đau ấy, nhà thơ gián tiếp bày tỏ thái độ lên án chiến tranh và niềm cảm thông sâu sắc với khát vọng được sống, được hưởng hạnh phúc của người phụ nữ.
+ Đoạn văn trong Truyện Kiều rút lại, chia ly chỉ là cái cớ, chỉ là cái cớ để Nguyễn Du khái quát nỗi đau của thân phận người phụ nữ: từ nghĩa, bóng cô đơn đến những ưu phiền bị từ chối… Nỗi đau ấy không của riêng ai:
Đàn bà đau thay phận chia,
Nghe đồn bạc mệnh cũng là chung số phận.
2. Nghĩ về thân phận người phụ nữ.
– Cảnh ngộ của người chinh phụ hay nàng Kiều trong hai đoạn thơ đều cho thấy nỗi đau mà người phụ nữ xưa kia phải chịu đựng. Họ đều là nạn nhân của xã hội phong kiến thối nát, không tôn trọng quyền sống và quyền hạnh phúc của con người.
– Cả hai tác giả gặp nhau ở tư tưởng nhân đạo, nhân văn sâu sắc có sức lay động lòng người.
– Em hãy liệt kê thêm những câu ca dao hay một số thơ ca trung đại có nói về thân phận người phụ nữ thời xưa để bài viết sinh động hơn?