
Trải nghiệm truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh dưới góc nhìn thơ ca
Truyện Sơn Tinh Thủy Tinh vốn bắt nguồn từ sự tích xa xưa về thần núi Tản Viên, trong lịch sử đã được biến thành truyền thuyết. Như vậy, xét về thể loại, Sơn Tinh Thủy Tinh là thể loại mang đậm dấu ấn của cả thần thoại và truyền thuyết. Theo đó, đặc điểm thi pháp của truyện được biểu thị bằng loại truyện truyền thuyết được lịch sử hóa từ thần thoại.
Về đề tài và chủ đề, truyện vừa thần thoại, vừa huyền thoại. Đó là vấn đề tự nhiên và vũ trụ trong cách hiểu và lý giải của người xưa (thần thoại) và vấn đề lịch sử và thế giới của đời sống con người với những cuộc đấu tranh của các nhân vật lịch sử và các thế lực đối lập để khẳng định mình, giống nòi, bộ tộc, cộng đồng trong lịch trình phát triển của xã hội và con người (truyền thuyết).
Chất thơ của các nhân vật trong truyện được thể hiện dưới nhiều góc độ:
Chỉ có một, các nhân vật chính được nhìn từ sự kết hợp giữa các nhân vật thần thoại và lịch sử. Tính chất thần thoại được thể hiện ở một số khía cạnh cơ bản như: Xuất hiện các nhân vật không rõ nguồn gốc. Độc giả không biết nguồn gốc, lai lịch của cả Sơn Tinh và Thủy Tinh, chỉ biết rằng: “Người núi Tản Viên kỳ tài (…), người miền biển cũng kỳ tài không kém…” Những nhân vật có năng lực siêu phàm của thần thánh mà người thường không thể có: “Với Sơn Tinh, vẫy tay về phía đông, phương đông bồng bềnh; vẫy tay về phía tây, phía tây nổi lên núi đồi”; Đối với thủy ngân “gọi gió, gió đến; thành phố mưa, mưa đang đến”. Vì vậy, những vấn đề mà các nhân vật đưa ra và đại diện thuộc phạm trù vũ trụ, tự nhiên, là cốt lõi của các vấn đề thần thoại. Ngoài ra, tính chất lịch sử của các nhân vật chính được miêu tả trong phạm trù đời sống xã hội, văn hóa, lịch sử của con người và cộng đồng, bao gồm các vấn đề hôn nhân, đính hôn, hạnh phúc, lũ lụt, trị thủy bảo vệ mùa màng và đời sống nhân dân.. .
Trong truyện, các mặt tự nhiên và xã hội có mối liên hệ với nhau, tạo sự hấp dẫn và gần gũi với người đọc, bởi nếu các tính chất tự nhiên khác không có mối liên hệ với tự nhiên xã hội thì vấn đề đã được giải quyết, còn suy tư có thể người đọc chưa biết. Nhưng trước tiên, tình tiết trung tâm và cốt lõi là tình yêu và hôn nhân: cả hai vị thần đều muốn có một người vợ, và người vợ đó là một công chúa, người đẹp như hoa và tính tình dịu dàng… Vì vậy, tác giả của câu chuyện đã kéo thế giới của các vị thần trở lại thế giới của con người. Đặc biệt, lựa chọn chi tiết tìm vợ – vốn là vấn đề rộng rãi trong toàn xã hội và thuộc về vấn đề muôn thuở – với yêu cầu kén rể không dễ thực hiện, có sự đấu tranh gay gắt. cơn thịnh nộ và hận thù vô tận…, nhân bản hóa các vị thần
Theo đó, tác giả truyện cổ tích kéo thế giới của các vị thần vào thế giới của con người, vượt qua hai thế giới này khi vị thần cũng yêu lửa, khao khát gia đình và ghen tuông, báo thù như con người. Đặc biệt, vấn đề tình yêu và hôn nhân vốn dĩ là một trong những vấn đề rộng rãi, có ảnh hưởng lớn nhất đến đời sống và con người trong xã hội thì tính xã hội của truyện càng lớn.
Nó là hai, mối quan hệ giữa các nhân vật được nhìn từ bản chất đối lập, đối kháng, loại trừ triệt để và được tác giả truyện đẩy đến hai thái cực: đất và nước, núi và biển, được vợ phụng dưỡng và mất vợ. Chính sự lựa chọn này là trung tâm của việc tạo ra các mâu thuẫn. Nhất là khi Mỵ Nương không thể làm vợ cả hai vị thần thì cãi vã không thể dẹp bỏ, mâu thuẫn không thể hóa giải. Người ta đã lấy hiện tượng lũ lụt hàng năm ở lưu vực sông Hồng làm căn cứ để giải thích nên càng tăng thêm độ tin cậy cho người đọc.
Đó là ba, điểm nhìn bao quát là điểm nhìn bên ngoài hơn là điểm nhìn bên trong, điểm nhìn trần thuật hơn là điểm nhìn tâm lý. Đây là đặc điểm chung của các nhân vật trong thần thoại, truyền thuyết. Còn nhân vật Sơn Tinh và
Sao Thủy được mô tả thông qua các hành động mà nhân vật thể hiện; Các nhân vật không có lời nói, không tự bộc lộ diễn biến tâm lí bên trong mà thái độ được thể hiện thông qua miêu tả hành vi bên ngoài của người kể. Một số chi tiết diễn tả thái độ của hai vị thần cũng là lời người kể từ điểm nhìn bên ngoài chứ không phải lời nhân vật nhìn từ bên trong, chẳng hạn: Thủy đến sau, không lấy được vợ, giận dữ; Sơn Tinh không nao núng.
Khoảng thời gian cho nghệ thuật: Thời đại nghệ thuật được lịch sử hóa vào năm Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái tên là Mỵ Nương, xinh như hoa, nết na thùy mị. Đặc điểm này làm cho cái kì ảo thần tiên vốn không có trong thần thoại, gần gũi hơn với đời sống con người và được nhận diện trong truyền thuyết.
Về không gian nghệ thuật: Một số địa danh có thật ngoài đời thực như Tản Viên, Phong Châu có ý nghĩa xác lập, định vị không gian diễn ra câu chuyện cùng với những trận chiến giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh, từ đó tăng thêm sức thuyết phục cho người đọc.
Về kết cấu thẩm mỹ: Tên truyện là tên một nhân vật, tên hai vị thần: Sơn Tinh (thần núi) và Thủy Tinh (thần nước); Nhưng những vấn đề được diễn đạt, cắt nghĩa trong truyện không chỉ thuộc về hai vị thần ấy, chủ yếu thuộc về đời sống con người – mà thuộc về những vấn đề hệ trọng, sống còn của người Việt cổ: chuyện cưới hỏi, đặc biệt là vấn đề tiêu úng, đắp đê ngăn lũ. phục vụ trồng trọt, bảo vệ mùa màng, đời sống dân cư và phát triển xã hội.
Sức hấp dẫn thẩm mĩ của truyện cổ tích từ vấn đề thi pháp là tạo nên sức hấp dẫn của hình tượng kì ảo, siêu nhiên; Mỗi nhân vật chính đều có sức hấp dẫn và sức hút riêng. Mặt khác, truyện cổ tích lồng ghép, đan xen vấn đề nhận thức về tự nhiên, vũ trụ thần thoại, kì ảo với những vấn đề cơ bản của đời sống con người bấy giờ và mãi mãi. Vì vậy, bên trong cái vỏ duy tâm là cốt lõi duy vật. Đằng sau hình tượng Sơn Tinh – Thủy Tinh và những trận chiến giữa hai vị thần ẩn chứa hiện thực lịch sử về công cuộc đắp đập trên sông Hồng hàng nghìn năm của người Việt, cũng như thảm họa lũ lụt luôn rình rập. , đe dọa cuộc sống của cư dân đồng bằng sông Hồng.