
Cảm nhận vẻ đẹp và nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài Nhàn
“thư giãn” là chủ đề lớn trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Theo quan niệm của nhà thơ, nhàn là sống thoải mái hài hòa với thiên nhiên, không màng danh lợi. Ca khúc là lời tâm sự về cuộc sống và sở thích cá nhân. Nó cũng thể hiện quan niệm sống độc đáo của nhà thơ.
Bài thơ bắt đầu bằng những từ rất đơn giản:
“Một ngày, một cuốc, một cần câu
Làm thơ dù ai cũng vui”.
Đó là cuộc đời của Nguyễn Bỉnh Khiêm, bà Trang. Nó sạch sẽ và tinh khiết biết bao. Đoạn thơ đưa ta về với cuộc sống nguyên sơ, giản dị của thời “nước đào giếng, lúa cày ruộng”. Cuộc sống tự cung tự cấp nhưng vẫn ung dung, ngạo nghễ trước thói đời. Hai câu đầu cũng là một thái độ thản nhiên, thản nhiên.
Nhịp điệu câu thơ như nhân vật trữ tình đang nhẹ nhàng đếm bước chân: một trong một trong một.. Ở hai bài, nhà thơ tiếp tục nhấn nhá thêm một chút giai điệu thôn dã để người đọc cảm nhận chân thực niềm vui của “cuộc sống tự do”:
“Mùa thu ăn măng, mùa đông ăn giá”
Xuân bơi hồ sen, hạ bơi hồ sen.”
Vẫn ngôn từ giản dị, hình ảnh nghệ thuật dân gian, đời thường, vậy mà hai câu thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm “sang trọng” biết bao. Nó chẳng những không gợi chút khắc khổ nào mà lại toát lên cả một vẻ quý phái. Giới hạn cao trong cách ăn uống, sinh hoạt cũng như thích hòa mình vào cuộc sống thiên nhiên.
Cuộc đời của Nguyễn Bỉnh Khiêm là thế, lắm tự làm, Rất tự nhiên, nhưng vẫn bay bổng và thú vị vô cùng. Chỉ cần đọc bốn câu thơ miêu tả cuộc đời, chúng ta có thể liên tưởng ngay đến hình ảnh một danh nhân muốn thoát ly cuộc đời. Nhưng trở lại hai câu thực, ta sẽ hiểu rõ hơn quan niệm “thoát tục” của nhà thơ:
“Tôi ngốc, tôi đang tìm một nơi yên tĩnh
Người khôn người đến chơn lao xao”.
Thế là Tuyết Giang vợ về với thiên nhiên để thoát ra khỏi vòng danh lợi, ra khỏi chốn sóng gió đầy ganh ghét đố kỵ. Hai câu thơ diễn đạt ý bằng cách nói ngược. Vì vậy, nó mang đến cho người đọc một sự liên tưởng hết sức hóm hỉnh và cảm động. Câu chân ngôn là trí tuệ sắc bén của một đại thư ký – trí tuệ để nhận ra cái khôn thật và dại ở đời. Hai câu thơ cuối bài thơ khép lại một cách êm đềm, thư thái:
“Rượu vì gỗ, tôi sẽ uống
Nhìn thấy sự giàu có giống như một giấc mơ.”
Hai câu thơ này không biết là vẽ cảnh đời hay cảnh tiên cảnh. Ở đây, nhân vật trữ tình không biết mình đang yêu hay đang mơ. Tất cả hòa làm một dưới nhãn quan sáng suốt và thông minh của nhà thơ.
Nguyễn Bỉnh Khiêm chọn lối sống nhàn tản, là một người sống với tư cách cá nhân chứ không phải là thành viên của một cộng đồng nào đó, là một con người có lạc thú chứ không chỉ có chức năng, nghĩa vụ. Sống dưới chế độ chuyên chế Nho giáo, con người bị ràng buộc bởi hai sợi dây: nghĩa và mệnh. Việc phân định ranh giới cho từng người, quy định mức độ cho mỗi người trong việc ngồi, đi đứng, nói năng, xưng hô, ăn, ở.
Mượn lời lẽ giản dị, như tự giễu mình, tác giả nhắc nhở mọi người phải có trách nhiệm với kẻ trên, kẻ dưới, v.v. Trong một xã hội được tổ chức như vậy, con người không được coi mình là cá nhân – độc lập, có cái riêng, không được nghĩ đến lạc thú. Vì vậy, tìm nhàn là tìm niềm vui cho thân tâm, thoát khỏi gánh nặng dịch học, tìm thoát khỏi ách nô lệ chắc chắn nhưng vô hình của chế độ chuyên quyền Nho giáo, v.v.
Nguyễn Bỉnh Khiêm luôn coi mình là người bất cần đời. Nhưng một mặt, không thể coi cá nhân là đơn độc, coi cái “tôi” là trung tâm. Vì vậy hãy cố gắng tránh ách nô lệ bằng cách từ bỏ danh lợi, không chạy theo con đường danh lợi, địa vị, coi thường giàu nghèo, sang hèn, đứng ngoài ranh giới của định mệnh. Muốn có được chút an nhàn đó, anh ta phải tích cực hạn chế bản thân: không cậy tài, bình tĩnh, không tranh đua, khen chê phải kiên định.