
Đặc điểm thơ Tagore
Thơ giàu chất hiện thực là đặc điểm nổi bật trong nghệ thuật thơ Tagore đã được nhiều nhà nghiên cứu bàn luận. Nhưng Tagore không phải là nhà thơ hiện thực thuần túy, mặc dù nội dung thơ ông phản ánh cuộc sống và sinh hoạt. Nội dung ấy được bao bọc trong một lớp từ ngữ, hình ảnh tượng trưng mang tính chất tôn giáo, siêu hình, thần bí như Chúa Đôi, Thần, Thầy, Người… nhưng những câu chuyện, tình tiết, hình ảnh ông tạo ra đều là người thật, người thật đã xảy ra. ở Ấn Độ nghèo khổ và đau khổ của mình
Đó là nỗi xấu hổ của một phụ nữ Jebala chưa chồng, ước mơ nhỏ nhoi của một chàng trai nghèo, tình yêu trụy lạc của một nàng công chúa bị đạo Bà La Môn dày vò, tấm lòng cao thượng của một người hành khất, v.v… Đó còn là đấu tranh chống lại tôn giáo, bạo quyền, chiến tranh. và duy trì hòa bình.
Nhà phê bình văn học Ấn Độ Nira Chandhuri nhận xét: Thơ tôn giáo của Tagore là thơ truyền thống, không phải thơ thần bí. Ông cho rằng: một người yêu đời như ông (Tagore) không thể là nhà thần bí, mà hạnh phúc chỉ có thể tìm thấy trong sự từ bỏ chính mình và phủ nhận thế giới này.
Còn Nadim Hicmet, nhà thơ vĩ đại người Thổ Nhĩ Kỳ nhận xét: “Tôi yêu thơ Tagore và nhạc Bach. Tôi không cần vẻ ngoài thần bí của họ. Tôi biết họ có điểm thần bí, nhưng cái họ có được nhiều nhất là tình yêu cuộc sống, niềm tin vào cuộc sống. Đó là lý do tại sao Bach vẫn vĩ đại trong số những nhạc sĩ vĩ đại nhất, Tagore vẫn vĩ đại trong số những nhà thơ vĩ đại nhất.”
-
Trữ tình và lãng mạn phong phú.
Thơ Tagore vừa là một bài thơ tình tuyệt diệu, vừa là một bức tranh thiên nhiên sống động. Trong thơ ông thường sáng tạo nhiều hình ảnh lung linh huyền ảo, màu sắc tươi tắn, biến khổ đau thành niềm vui lạ lùng của đất và người đã “tan thành khúc ca trong lòng thi nhân (Bài 86 – Mùa hái quả). Về cơ bản, Tagore là một nhà thơ lãng mạn.
Thiên nhiên là chủ đề trong nhiều miêu tả của Tagore, ông để thiên nhiên lấn át thơ mình. Tagore vốn là một nhà thơ yêu thiên nhiên, chủ trương con người phải hài hòa với thiên nhiên và vũ trụ. Người nghệ sĩ là người yêu thiên nhiên, coi thiên nhiên là đối tượng gần gũi với con người, như “Mỗi chủ thể của thiên nhiên được thể hiện như một sự hài hòa với vô số chủ thể khác, vô hình”, nên ông kêu gọi: “Nhà thơ, mặt trời nhìn thấy trong đóa hồng rực rỡ của mùa xuân Ôi, tôi đã ghi nhận tất cả khi tôi lên đường” (Bài 41- Tập Đôi cánh thiên nga).
Tagore là mẫu mực của điều đó. Trong thơ ông, ta sẽ bắt gặp dãy Himalaya hùng vĩ bất chấp ánh nắng mặt trời và khoảng không vô tận. Rộng, dài và sâu, Hằng Hà hôn nhẹ bờ bãi, đồng ruộng để bày tỏ lòng yêu nước, yêu quê hương, yêu cuộc sống Ấn Độ. Thơ ca giàu màu sắc tươi đẹp của cỏ cây hoa lá, ánh nắng chói chang, ánh trăng vàng, trái ngọt trĩu cành… Những âm thanh làm rung động lòng người, tiếng sáo du dương, tiếng chim hót líu lo, v.v… vang vọng trong thơ ông. Cũng dễ hiểu vì sao các tác phẩm của ông đều có tên là Mùa hái trái trong thiên nhiên, Trăng non, Cánh thiên nga, Con chim lạc, Vượt biển, Người làm vườn…
Ngôn từ thơ của Tagore chắt lọc, điêu luyện và đẹp, giàu hình ảnh gợi nhiều cảm xúc trong lòng người đọc. Như Ilya Erenbua (1891-1967), nhà văn Liên Xô, đã nhận xét: “Tagore là nhà thơ trữ tình tầm cỡ nhất” và một “sự lãng mạn sáng tạo,” như chính Tagore đã nói.
Đây là một đặc điểm nữa được bộc lộ trong thơ Tagore: sự chiêm nghiệm và trăn trở làm cho bài thơ giàu ngôn từ và nổi bật về ý nghĩa. Hình ảnh sinh động, câu chuyện sâu sắc, ngôn từ giản dị được sử dụng để giải thích rõ ràng, sâu sắc và thuyết phục triết lý sống và lẽ sống của con người. Ông mang đến cho người đọc một nhận thức đúng đắn về Thượng đế, thiên đường, địa ngục, sự sống và cái chết, đau khổ và hạnh phúc.
Trong thơ ông, không phải bài thơ nào người ta cũng hiểu ngay, nhất là trong một tập thơ, có bài phải đọc đi đọc lại nhiều lần mới hiểu. Người đọc phải suy nghĩ, đắm chìm trong những liên tưởng, mơ mộng, tạo ra những niềm tin mới, làm trí óc lấp lánh. Nhiều bài thơ như ngụ ngôn, cách ngôn có tác dụng giáo dục sâu sắc như trong tập thơ “Con chim lạc đàn”.
-
Phương thức biểu đạt tượng trưng.
Để nhấn mạnh đặc điểm trên, Tagore thường sử dụng những cách diễn đạt tượng trưng như Kinh thánh, kinh Phật, tức là ông mượn truyện kể để bày tỏ quan điểm, quan niệm của mình. Ông vận dụng linh hoạt hình tượng tín ngưỡng, kể cả thần thoại, truyền thuyết, cổ tích trong văn học cổ để thể hiện nội dung mới. Ông đã biến những hình tượng vô hình trừu tượng thành những hình tượng cụ thể. Ông tước bỏ uy quyền của thần tượng để ca ngợi phẩm chất của người dân lao động nghèo khổ, biến thần tượng thành vũ khí chống lại giai cấp bóc lột, chống lại thần thánh như trong bài “God is work”, “Saint Noratam” bài 34 – mùa hái trái cây). Ngoài ra, Tagore còn sử dụng hình ảnh động vật, thiên nhiên, ngôn ngữ tượng trưng và hàm ý.
Chính nhờ vận dụng phương thức biểu đạt tượng trưng trên mà thơ Tagore dễ dàng đi vào lòng người cả về lý trí lẫn tình cảm. Đó là một thủ pháp độc đáo trong nghệ thuật thơ lãng mạn của Tagore.
Cheliyev – Nhà Ấn Độ học Liên Xô đã đánh giá Tagore như sau: “Tagore là một tổng hợp kỳ diệu của văn học Ấn Độ, từ Upanisads đến các văn bản Phật giáo đến thơ ca Kalidasa, bao gồm tinh thần nhân đạo trung đại, cùng với chủ nghĩa lãng mạn tiến bộ trong văn học Anh và tinh thần đấu tranh của nhân dân Ấn Độ chống chủ nghĩa đế quốc giành độc lập”.
Vì vậy, thơ Tagore “vừa dân tộc vừa phổ quát” (Nehru). Giá trị thi ca của Tagore khiến ông xứng đáng là “ngôi sao sáng của thời kỳ phục hưng Ấn Độ”, “nhà cách tân vĩ đại”. Ông cũng được xếp hạng là một trong mười nhà thơ vĩ đại nhất của thế kỷ XX.