
Phân tích dàn ý bài thơ “Bài hát của sự bất ngờ” (Nguyễn Công Trứ).
– Nguyễn Công Trứ Ông là một nho sĩ tài tử, có cuộc đời phong phú đầy thăng trầm, sống dũng cảm, ung dung tự tại, có nhiều đóng góp cho dân, cho nước. Ông là người có đóng góp đáng kể cho sự phát triển của hát nói trong văn học Việt Nam.
– “Bài hát tuyệt vời” được viết trong thời gian ông nghỉ hưu. Bên ngoài vòng vây của trường lớp và sự nghiêm khắc của lễ giáo thiên hạ mới có thể khám phá hết tâm hồn phóng khoáng của chính mình, đồng thời đúc kết được quan điểm sống phong phú. Bài ca dao là một trong những bài ca dao tiêu biểu thể hiện tài năng, tư cách và ý thức cá nhân của Nguyễn Công Trứ.
1. Quan điểm về cuộc đời ngất ngưởng trên đường công danh (6 câu đầu):
“Vũ trụ bên trong không phải là một phần của công việc
Ông Hi Văn Tài Bố vào lồng
Đôi khi là diễn giả chào mừng, đôi khi là cố vấn, đôi khi là toàn quyền miền Đông
Kể cả chiến thuật làm xỉu tay
Trong thời bình, cờ tướng
Thỉnh thoảng tôi đến phủ Thừa Thiên”
– “Vũ trụ có ý định”: phong thái tự tin khẳng định mọi việc trên trời dưới đất đều là bổn phận của tác giả → Lời tuyên bố ý muốn làm con của nhà thơ.
– “… vào lồng”: Coi việc ra đời là một công việc ràng buộc nhưng cũng là điều kiện để nhân tài được phát hiện
– Liệt kê những việc bạn đã làm ở vị trí chính thức và tài năng của bạn:
– “choáng ngợp” Khi làm quan: Tài năng và địa vị xã hội
+ Tài: giỏi văn (khi khen), tài dùng binh (tài) → Tài năng phi thường: Văn võ song toàn.
+ Thể hiện chức vụ, địa vị xã hội: Cố vấn, Tổng đốc, Tổng trấn (trấn Tây), Phủ doãn Thừa Thiên → Trẫm tự hào là người vô cùng tài giỏi, có danh tiếng văn chương, tài hoa.
– Ông xuất thần khi làm quan: là người bộc trực, thanh liêm, có tài, lập nhiều công nhưng cũng phải chấp nhận cuộc sống làm quan không mấy thuận lợi.
→ Sáu câu đầu là lời của nhà thơ khi làm quan, khẳng định tài năng và lí tưởng tự do cao ngạo của một người có năng lực khác thường. Tự nhận mình là người có tài có hạn, mất tự do nhưng Nguyễn Công Trứ vẫn làm quan vì đó là phương tiện để thực hiện hoài bão của mình đối với dân, với nước.
2. Quan điểm sống trong lối sống, suy nghĩ về hưu (10 câu sau):
“Tôi tổ chức giải đấu hàng năm
Anh ta mang theo một con bò vàng và một con ngựa
Nhìn kìa, ngọn núi kia mây trắng bao phủ
Tay cầm gươm cung nên từ bi
Thần tiên theo đỉnh cặp dì cháu
Đức Phật ngất xỉu cũng buồn cười
Mất dương lại sinh dương
Ca ngợi và phơi bày những ngọn cây phong mùa đông
Khi bạn hát, khi bạn uống, khi bạn uống, khi bạn hát
Không có Phật, không có tiên, không có âm mưu.”
– “choáng váng” khi trái quýt giã từ: cách sống khác người.
+ Cách sống theo ý chí, sở thích cá nhân: Hành động cưỡi bò vàng – mặc đồ sính lễ; chơi chùa – dì kép khá đỉnh; uống rượu và ca hát; anh ta không quan tâm đến giàu nghèo, được và mất, anh ta bỏ qua mọi lời khen và chê. Tài tử giàu có không ngại khẳng định cá tính → Sở thích lạ lùng, khác thường, thậm chí hơi cẩu thả và ngây ngất.
+ Đức Phật cũng buồn cười: cách miêu tả hành động của tác giả thật khác thường, ngược đời, trái với quan điểm của các nhà Nho phong kiến → Nhân cách nghệ sĩ muốn sống theo cách của mình.
– Quan niệm sống:
+ Giảm lãi – lỗ: “Lạc đường và lấy… ngọn cây phong mùa đông” . Tự tin sánh mình với “Đấng tối cao”, tức là sống ung dung tự tại, không màng đến sự khen chê của thế gian.
+ Hài lòng với cuộc sống đời thường: “Khi tôi hát… lúc chia tay” : tạo cảm giác về một cuộc sống phong phú, thú vị, của “khi nào” tôiNó liên tục tạo ra một cảm giác vui vẻ liên tục.
+ Tự trọng và đề phòng mình trước thiên hạ: “Không… bình thường” : không phải Phật, không phải tiên, không dính vào thế gian, sống ngoài thế gian → sống chẳng giống ai, sống ngất ngây.
→ Đều thể hiện cá tính, dũng khí, tự tin của con người có cách nhìn lại cuộc đời và thể hiện bản thân rất độc đáo. Trên cơ sở đó, có thể thấy rõ nét đẹp trong nhân cách của Nguyễn Công Trứ: một con người có năng lực, dám sống cho mình, bỏ qua những hạn chế của gia giáo, thuận theo lẽ tự nhiên.
3. Khẳng định xuất thần vô địch (3 câu cuối).
– “Nó không chống lại âm nhạc … Công lý của vua tôi nhường mọi con đường cho chị cả”: Dùng kinh điển để so sánh mình với những danh nhân có sự nghiệp lẫy lừng như Trại Tuấn, Hàn Ký, Phù Bát… → Khẳng định lòng dũng cảm, khẳng định tài năng sánh ngang với danh tướng. Anh ta tự xưng là một người hầu trung thành.
– “Ai trong phiên tòa mà ngây ngất như anh”: vừa hỏi vừa khẳng định quan điểm của người đứng đầu phiên tòa về cách sống “thống trị” → Tuyên ngôn khẳng định nhân cách, khát vọng vượt ra ngoài nhân sinh quan đạo đức Nho giáo thông thường. Với anh, thuốc lắc phải có tên thật và tài thật.
4. Nghệ thuật diễn đạt.
– Đây là tác phẩm viết theo thể loại hát nói, lối văn tự sự, hình thức tự do, phóng khoáng, đặc biệt là sự tự do về vần, nhịp phù hợp với cách thể hiện của cá nhân.
– Giọng điệu hóm hỉnh, trào phúng. Sử dụng kinh điển và kinh điển.
– Bài thơ có sự kết hợp hài hoà giữa hệ thống từ Hán Việt với từ nôm thông dụng trong đời sống hàng ngày.
→ Nguyễn Công Trứ là người đầu tiên có công đưa vào hát nói một nội dung tương ứng với chức năng và cấu trúc của nó.
– Qua thái độ “sự ngạc nhiên”, tác giả muốn thể hiện lối sống tốt đẹp, lòng dũng cảm của cá nhân trong xã hội phong kiến chuyên quyền: Hết lòng vì vua, vì nước, bất chấp mọi được – mất, khen – chê ở đời. Đồng thời, bài thơ cho người đọc thấy được sự tự nhận thức của tác giả về giá trị của bản thân: tài năng, trí phận, phẩm chất – một con người tài hoa với những giá trị mà không phải ai cũng có được. Được rồi.
Phân tích bài “Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ.