
Khái quát bài thơ Tự thú của Phạm Ngũ Lão (Thuật Hoài)
Phạm Ngũ Lão (1255-1320), quê làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, tỉnh Hưng Yên. Ông là danh tướng thời Trần, xuất thân từ tầng lớp nhân dân, có công lớn trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông (lần 1 và lần 2), đạt chức Điện sư, được phong tước Quân. Không có I. Tự thú (Thuật Hoài) là một trong số ít tác phẩm còn lưu giữ được của Phạm Ngũ Lão. Bài thơ ca ngợi những chiến công hiển hách của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên, đồng thời thể hiện lí tưởng sống đáng tin cậy và cao cả của tác giả đối với non sông, đất nước.
1. Vẻ đẹp của con người thời Trần (2 câu đầu):
Bài “Kết nghĩa” thể hiện niềm tự hào về đấng nam nhi và khát vọng chiến thắng của người anh hùng khi nước nhà bị giặc. Đó là bức chân dung tự họa của danh tướng Phạm Ngũ Lão:
Hoành sóc giang sơn có thành tích
Ba con hổ quân ở làng Ngưu.
(Múa giáo núi sông trải dài theo năm tháng.)
Ba vũ khí hùng mạnh nuốt chửng con trâu)
– So sánh thơ nguyên tác và thơ dịch: Bản dịch chưa sát nguyên tác: bản dịch “hoàng sóc” → “múa giáo” đã làm mất đi lập trường vững vàng, sẵn sàng bảo vệ quê hương của người anh hùng thời Trần.
– Hình tượng anh hùng:
Hành động: Sóc (giáp giáo) → Lịch sự, bình tĩnh, chủ động, hào hoa, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
+ Thời gian: thời gian dài, không gian rộng lớn.
+ Không gian: sông núi.
→ Chiều dài mênh mông của thời gian và sự bao la của không gian làm nổi bật một sự phát triển vượt bậc, sánh ngang với vũ trụ anh hùng.
– Hình ảnh ba người lính:
+ Tam quân: Vừa là hình ảnh của một đội quân, vừa là hình ảnh của cả một dân tộc với khí thế như hổ.
Có thể hiểu bài thơ theo hai cách:
- Ba mảnh sức mạnh như hổ có thể nuốt chửng một con trâu.
- Ba quân mạnh như hổ, khí thế vượt trội so với sao Kim Ngưu.
+ Khát vọng anh hùng đó là khát vọng lập công danh để thoả mãn “ý chí con người” cũng là khát vọng đem tài năng của mình “khắc cốt ghi tâm” – thể hiện lẽ sống cao cả của con người thời Đông A. sức mạnh vũ trụ của toàn dân tộc.
+ Nghệ thuật: Phép phóng đại, so sánh có tác dụng nâng cao khí thế của đoàn quân Xuất Kích
→ Bằng những hình ảnh thơ đậm chất sử thi, giọng điệu hào hùng, hai câu thơ đã khắc họa vẻ đẹp của những con người thời Trần với ý chí và lòng yêu nước nồng nàn.
2. Nỗi lòng của tác giả:
Bài thơ Tự thú nói lên nỗi lòng của tác giả khi chưa trả được chí làm trai
Nam liễu công danh lưu lại
Nghe thuyết dân gian Vũ Hầu
(Tên đàn ông còn nợ nần
Tôi xấu hổ khi nghe câu chuyện của Hầu tước)
– Giọng điệu: Nếu như giọng điệu ở hai câu đầu mạnh mẽ, hùng tráng thì ở hai câu cuối giọng điệu lại trầm lắng, suy tư, bộc lộ tâm trạng băn khoăn, lo lắng.
– “nợ công” là ý chí làm người theo tinh thần Nho giáo:
+ Lập công (bỏ nghiệp).
+ Tạo tên (để lại tiếng thơm).
→ Đó là lí tưởng chung của đấng nam nhi trong thời đại phong kiến.
– Nghĩa tích cực là: Việc người quân tử thể hiện sự dấn thân của mình với đời, với dân, với nước là một vinh dự chứ không phải chỉ khẳng định mình bằng công lao.
– Trong điều kiện thời bình, “nợ công” là “nợ thi”, học thi, đỗ đạt, góp phần xây dựng đất nước.
– “Tên” mà Phạm Ngũ Lão nói đến là bổn phận với nước, là công danh gồm tài thao lược chứ không phải là một công việc tầm thường mang đậm màu sắc cá nhân.
– Con người xấu hổ trong bài ca dao xuất thân là một người luôn có trách nhiệm với dân, với nước. Đây là cậu bé đan thúng làng Phù Ủng, đây là Phạm Ngũ Lão, được Hưng Đạo đưa vào làm khách của Hưng Đạo, rồi cầm quân trấn thủ, là nhà quân sự tài ba của nhà Trần.
– Nỗi đau đến từ một người như vậy hẳn không nhỏ, không tầm thường chút nào. Hơn nữa, tác giả được cho là không xứng với Gia Cát Lượng Vũ Hầu.
– Anh hùng hổ thẹn nghe người kể chuyện hầu tước.
+ Ngô Hầu Khổng Minh Gia Cát Lượng là quân sư tài ba, nổi tiếng, giúp Lục Bị lập nghiệp lớn, thống nhất nhà Hán.
+ Phạm Ngũ Lão hổ thẹn vì không có tài thao lược như Khổng Minh để khôi phục đất nước, giải phóng đất nước.
– Công danh sự nghiệp là mục đích sống của một đấng nam nhi:
Ân huệ của nhà vua không được đền đáp
Cọp nhìn xuống đất, nhìn lên trời.
(Nguyễn Khuyến)
Tôi định cất bút đi
Nghĩ mà thấy hổ thẹn cho anh Đạo
(Nguyễn Khuyến)
Xuân, xuân, xuân em biết không?
Nhục nhã sông buồn núi buồn trăng
(Phan Bội Châu)
– Không hổ là quá kiêu ngạo. Đây là nỗi xấu hổ lớn của một nhân cách lớn, nỗi xấu hổ này giúp con người không dừng lại, tự mãn về mình mà luôn hướng tới, quyết tâm đạt được lý tưởng.
– Xấu hổ là trạng thái tự kiểm tra cảm xúc lặp đi lặp lại để hiểu rằng có điều gì đó không ổn, xấu hổ. Ví như bạn học không giỏi, bạn không được làm thầy, cha mẹ bạn vui lòng. Em chưa có đóng góp của riêng mình cho lớp, cho tập thể…..
– Nhà Trần với ba lần đại thắng quân Nguyên, Mông
→ Sự khiêm tốn và nỗ lực không ngừng của nhà thơ và nhân cách cao cả của ông.
3. Bài học cho thế hệ thanh niên hôm nay.
– Sống phải có hoài bão, ước mơ và biết ước mơ những điều lớn lao.
– Nỗ lực hết mình và không ngừng để thực hiện hoài bão và hoàn thiện bản thân.
– Họ gắn nguyện vọng, lợi ích của mình với lợi ích của đất nước, của nhân dân.
– Bài ca dao là bức chân dung tinh thần của tác giả, nhưng cũng là vẻ đẹp của những con người thời Trần – có nghị lực, lí tưởng, nhân cách cao cả và hào khí Đông A.
– Phương pháp gợi, thiên về ấn tượng toàn diện, ngắn gọn.
– Phong cách nghệ thuật hùng tráng đậm chất sử thi với hình ảnh thơ rực rỡ, hùng vĩ.
Phân tích bài thơ Thuật Hoài của Phạm Ngũ Lão