
Đề cương phân tích đoạn trích “Kiều trong quán LỚN” (trích đoạn) “Truyện Kiều” – Nguyễn Du).
Đoạn văn nằm trong phần thứ hai (Biến thế và Lang thang). Sau khi biết mình bị lừa vào căn nhà kính, Kiều chán nản và định tự tử. Tú Bà vờ hứa đợi Kiều khỏi bệnh sẽ gả cho đàng hoàng, rồi quản thúc Kiều ở lầu Ngưng Bích, chờ thực hiện mưu đồ mới.
1. Tình cảnh cô đơn, cay đắng của Kiều.
– Sáu câu đầu tả cảnh thiên nhiên trên lầu Ngưng Bích với không gian và thời gian. Không gian nghệ thuật được miêu tả qua con mắt của Thúy Kiều:
+ Ẩn dụ: “xuân nhiên” → Kiều bị quản thúc.
+ Liệt kê các từ trái nghĩa:Núi xa trăng gần” → Lầu Ngưng Bích đùa giỡn với trời nước.
+ Cảnh đẹp nhưng mênh mông, cằn cỗi và lạnh lẽo. Nhìn về phía xa, chỉ có thể nhìn thấy một dãy núi mờ nhạt. Chỉ nhìn lên bầu trời “gần mặt trăng” → Thời gian buổi tối, gây ra nỗi buồn. Xa hơn, nhìn ra “bốn phương xa” là những đụn cát vàng nối tiếp nhau với những khóm hồng trên vực thẳm dài hàng dặm.
+ Sử dụng từ ghép, từ láy: “Bốn bề bao la” → Niềm hứng khởi trước không gian bao la.
+ Hình ảnh: “cát vàng bụi hồng” vừa chân thực vừa có tính liên tưởng, cảnh có nhiều đường nét và cũng bâng khuâng như tâm trạng của Kiều.
→ Nghệ thuật liệt kê, phép đối, phép đối “gần xa”/ “trăng gần”, phép đảo ngữ và từ láy “dồi dào”. Gợi lên một không gian im lặng đến rợn người không một bóng người. Đứng trước cảnh đó, Kiều cảm thấy cô đơn trống vắng.
+ Cụm từ “mây sớm đèn muộn”“Nó gợi ý rằng thời gian đóng lại theo chu kỳ, nó quay đi quay lại” “mây sớm” đến một lần nữa”đèn khuya”. Thời gian cứ thế trôi qua, Kiều lại cảm thấy một tâm trạng cô đơn tuyệt vọng, buồn bã và hổ thẹn. “làm nhục”. Thời gian và không gian dường như giới hạn con người. Kiều ở trong hoàn cảnh cô độc tuyệt đối.
+ So sánh: “Nửa tình, nửa cảnh như chia chác lòng mình” → Trước cảnh, Kiều càng buồn hơn về thân phận của mình. Bốn chữ “như chia sẻ nỗi lòng” diễn tả tấm lòng chua xót, tan nát của Kiều.
→ Lối kể độc đáo, khung cảnh làm nền cho Kia thổ lộ tình cảm của mình. Thiên nhiên rộng lớn nhưng con người thì nhỏ bé và cô đơn.
2. Cha mẹ Kim Trọng, Kiều mất tích.
– Chính trong hoàn cảnh cô đơn nơi xứ người, tâm trạng Kiều chuyển từ buồn sang nhớ nhung. Kiều nhớ người yêu, nhớ bố mẹ. Nguyễn Du đã diễn tả một cách xúc động nỗi nhớ ấy bằng lời độc thoại nội tâm bản thân nhân vật.
* Trước hết, Kiều nhớ Kim Trọng:
– Vì trong lúc gia đình biến động, Kiều phải hi sinh mối tình đầu đẹp đẽ để cứu gia đình nên Kiều có phần “cảm ơn vì đã được sinh ra” cho cha mẹ. Vì vậy trong lòng Kiều, Kim Trọng là người mất mát nhiều nhất, nỗi đau ấy cứ giằng xé lòng Kiều, đó là lý do Kiều luôn nghĩ đến Kim Trọng. Trình tự miêu tả phù hợp với quy luật tâm lí: Nhớ đến Kim Trọng trong tâm trạng đau đớn, khổ sở. Kiều luôn bị hành hạ, nàng tự trách mình là người tình của Kim Trọng. Và đây chính là nét tinh tế trong ngòi bút của Nguyễn Du.
– Nàng nhớ cảnh mình và Kim Trọng uống rượu tôi thề dưới ánh trăng:
+ Chữ cái “nghĩ” ở đây nó có thể được coi là một nhãn tự. Nguyễn Du không dùng từ nhớ mà dùng từ “nghĩ”. “nghĩ” cả những kỉ niệm, tưởng tượng, tưởng tượng về người mình yêu.
+ Thúy Kiều như trong tưởng tượng, ở nơi xa, người yêu cũng hướng về mình, ngày đêm chờ tin: “Tin tức là vô ích, chờ đợi vào ngày mai “. Rồi cô chợt nghĩ đến thân phận của mình “Cuối trời góc biển hiu quạnh” của tôi.
– Nhiều hình ảnh ẩn dụ:
+ “chén đồng” → Kiều luôn nhớ đến lời thề đôi lứa.
+ “tin sương mù” → Kiều hình dung Kim Trọng đang nhìn mình chờ đợi trong vô vọng.
+ “son môi” → và tấm lòng si tình Kim Trọng của Kiều không bao giờ nguôi, lòng trai của Kiều đã nhơ nhớp không bao giờ gột rửa được.
– Kiều thắc mắc: “Tẩy son không bao giờ phai” :CBài hát muốn nói về nỗi lòng của chàng Kiều, nỗi nhớ thương của Kim Trọng sẽ không bao giờ mất đi, cho dù chàng có gặp bao trắc trở trong cuộc đời. Câu thơ còn gợi ra một cách hiểu khác: Tấm lòng trong trắng của Kiều bị những người như Tú Bà chiếm đoạt, mã sinh viên vết thâm, ố, khi nào mới tẩy được?
→ Trong bi kịch tình yêu, Thúy Kiều mang nỗi đau nhân phẩm.
* Nhớ người yêu, Kiều xót xa nghĩ đến cha mẹ mình sáng chiều ngóng tin con.
– Từ “tiếc” diễn tả tấm lòng của Kiều đối với đấng sinh thành:
+ Cô lo lắng, xót xa khi nghĩ đến thân phận nghèo khó của cha mẹ, sớm hôm, khuya tựa cửa chờ tin con hay đợi con về giúp.
+ Cô lo lắng không biết ai sẽ chăm sóc bố mẹ khi thời tiết thay đổi.
+ Cô bé xót xa khi bố mẹ già đi, thương mình mà không thể ở bên chăm sóc.
– Thành ngữ: “Quạt ấm nóng lạnh” → Con xót xa, con lo lắng khi không phụng dưỡng được cha mẹ.
– Truyền thống: “giận hờn, gốc rễ” → đổi thay, sự tàn phá của thời gian khiến cha mẹ ngày càng già yếu.
– Tác giả đã sử dụng thành ngữ “Nóng lòng ngày mai”, “quạt ấm quạt mát”, “mấy ngày xa nắng mưa” và truyện dã sử “sân Lai, gốc Từ” để nói lên nỗi nhớ thương, chăm sóc và lòng hiếu thảo của Kiết đối với cha mẹ.
– Nhớ đến cha mẹ, Kiều luôn ân hận vì đã có công sinh thành, nuôi nấng cha mẹ. Kiều là người đau khổ nhất nhưng nàng đã quên đi hoàn cảnh của mình để nghĩ đến Kim Trọng, nghĩ đến cha mẹ → Kiều là người trung nghĩa, thủy chung son sắt, là người có tấm lòng vị tha đáng trân trọng.
– Ở đây, Nguyễn Du đã miêu tả tâm thế của Thúy Kiều vượt qua những định kiến của tư tưởng phong kiến: đặt chữ “yêu” trước chữ “hiếu”.
→ Trong tình cảnh ở lầu Ngưng Bích, Kiều là người đau khổ nhất nhưng nàng vẫn không quên nghĩ đến người yêu, đến cha mẹ. Điều đó chứng tỏ Kiều là người trung nghĩa, hiếu thảo và trọng nghĩa khí.
3. Tâm trạng buồn, lo lắng của Kiều qua cách nhìn cảnh vật.
– Sự lặp lại “nhìn buồn” Nó được lặp lại 4 lần tạo nên âm hưởng trầm lắng, buồn bã, trở thành một điệp khúc diễn tả nỗi buồn dâng lên tận đáy lòng Kiều. Cảnh thiên nhiên qua đôi mắt Kiều gợi lên một nỗi buồn sâu thẳm:
+ Cảnh chiều bên biển, với những cánh buồm thấp thoáng ẩn hiện nơi cửa hồ trong chiều gợi lên một hành trình phiêu bạt không biết đâu là bến bờ. → nỗi nhớ quê hương, nhớ nhà, nhớ cha mẹ; Tôi mong được gặp bạn.
+ Cánh hoa “trôi”“Trên mặt nước mới sinh gợi lên thân phận bé nhỏ mong manh, trôi theo dòng đời vô định, không biết về đâu. → Nỗi cô đơn, nỗi buồn của thân phận lênh đênh, bấp bênh giữa cuộc đời.
+ Cỏ xanh bạt ngàn “buồn” trải dài dưới chân mây và mặt đất gợi một cuộc sống héo úa, bi thương và vô vọng sẽ tồn tại mãi mãi. → buồn man mác, buồn vì cuộc sống đơn điệu, tẻ nhạt.
+ Hình ảnh “Gió thổi bay khuôn mặt của bạn” và tiếng sóng ầm ầm “gào thét quanh chỗ ngồi” gây sợ hãi, hãi hùng như báo trước, chính lúc này, cơn bão số phận sẽ ập đến, xô đẩy và vùi dập cuộc đời Kiều. → lo lắng cuộc sống sẽ gặp nhiều bất trắc.
→ Qua nghệ thuật ẩn dụ, hệ thống câu hỏi tu từ, các từ “xoáy”, “xa”, “nhiều”, “sầu”, “xanh biếc”, “hú hú”, phép điệp ngữ: “buồn trông” như một điệp khúc của thơ , tâm trạng; Câu hỏi tu từ: “Em biết hoa trôi về đâu?”… góp phần nhấn mạnh nỗi buồn đa đoan trong tâm trạng Kiều. Tác giả dùng ngoại cảnh để diễn tả tâm trạng. Các cảnh được hiển thị từ xa đến gần; màu từ nhạt đến đậm; âm thanh từ tĩnh sang động; Nỗi xót xa từ man mác, bất an đến lo lắng sợ hãi, đến cơn bão tố nội tâm, đỉnh điểm của cảm xúc trong lòng Kiều. Tất cả chúng đều là hình ảnh của sự bấp bênh, mong manh, thay đổi, trì trệ, sóng gió dữ dội. Khi đó, Kiều trở nên tuyệt vọng, yếu đuối nhất nên bị Chu Khanh lừa gạt, để rồi một đời tủi nhục.
4. Nghệ thuật diễn đạt.
– Nghệ thuật diễn xuất nội thất độc đáo bút chì để miêu tả một cảnh tình yêu Kết hợp nhuần nhuyễn các biện pháp tu từ quen thuộc (ẩn dụ, nhân hóa, điệp ngữ, thành ngữ…)
– Ngôn ngữ độc thoại, điệp ngữ “nhìn buồn”… kết hợp với những hình ảnh đằng sau thể hiện nỗi buồn với nhiều sắc thái khác nhau.
– Nghệ thuật liệt kê, đối lập tương phản.
chiết xuất “Kiều ở lầu Ngưng Bích” miêu tả chân thực hoàn cảnh cô đơn, buồn tủi, đau khổ, nỗi nhớ nhà da diết đối với người thân và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo, vị tha của Thúy Kiều khi nàng bị quản thúc ở lầu Ngưng Bích. Đoạn văn thành công ở nghệ thuật miêu tả nội tâm đặc sắc với thiên hướng miêu tả cảnh ngụ ngôn, được đánh giá là đặc sắc nhất trong Truyện Kiều.