
Tổng quan: Phân tích phà sông Đà Nguyễn Tuân
Nguyễn Tuân là một nhà văn tài hoa, uyên bác, suốt đời say mê cái đẹp của cuộc sống. Anh ấy có thiên hướng về thể loại tiểu luận. Một trong những sáng tác tiêu biểu của ông là bài tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Tác phẩm miêu tả vẻ đẹp đa dạng của sông Đà vừa hung bạo vừa trữ tình, đồng thời ca ngợi người lái đò bình dị mà tuyệt vời trên sông.
Trong tập tùy bút “Sông Đà” (1960) đã in tập tùy bút “Chuyến đò trên sông Đà” (1960), gồm 15 bài văn và một bài thơ ở dạng dàn ý. Tác phẩm được viết trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền bắc. Đó là kết quả của những chuyến đi thực tế Tây Bắc của nhà văn trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi năm 1958. Nguyễn Tuân đã đến nhiều đất nước khác nhau, sống với các chiến sĩ, công nhân và đồng chí, đồng bào các dân tộc.
Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã tạo cho nhà văn cảm hứng sáng tạo. Ngoài cảnh quan Tây Bắc hùng vĩ, tráng lệ, đẹp nên thơ, Nguyễn Tuân còn phát hiện ra những điểm đáng quý trong tâm hồn con người mà ông gọi là “Vàng thứ mười đã được thử lửa là vàng thứ mười của linh hồn Tây Bắc.”
Qua “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân đã tự hào gợi lên nét thơ mộng, hùng vĩ nhưng cũng khắc nghiệt của thiên nhiên xứ sở này qua hình tượng con sông Đà hung bạo mà trữ tình. Đồng thời, nhà văn phát hiện và ngợi ca nghệ thuật, tài năng và lòng dũng cảm của người lao động mới: chất vàng mười trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội qua hình tượng những người lái đò sông Đà. Từ đó, nhà văn ca ngợi sông Đà, núi rừng Tây Bắc vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, cũng như con người Tây Bắc cần cù, dũng cảm và tài hoa.
Người lái đò hiện lên trên tất cả là một người thợ lão luyện, có nhiều kinh nghiệm chèo thuyền, có lòng dũng cảm, gan dạ, khéo léo, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán. Nguyễn Tuân đặt nhân vật của mình vào một hoàn cảnh khốc liệt để bộc lộ hết những phẩm chất ấy, nếu không muốn nói là phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Người viết gọi đây là trận đánh nặng nhọc của những người lái đò trên chiến trường sông Đà, trong trận thủy chiến của mặt trận sông Đà.
Đó là một dòng thác nguy hiểm và chết chóc, diễn ra nhiều, nhiều lần như một trận chiến mà kẻ thù đã lộ rõ bộ mặt và dã tâm của kẻ thù số một: “Những tảng đá ở đây ngàn năm vẫn nằm yên dưới sông, hình như mỗi lần đi vào vùng quạnh hiu và gầm rú này, mỗi lần thuyền rẽ vào dòng sông là một vài hòn nhô lên. một chiếc thuyền. Mặt nào hòn nấy trông chênh vênh, hòn nào cũng nhăn nheo, méo mó hơn mặt nước nơi đây…”. Sông Đà giao việc cho từng đảo. Tôi chỉ thấy rằng đây là những gì cho thấy sự hình thành đá trên sông. Đá chia làm ba hàng chắn ngang sông đòi ăn thuyền cho chết, con thuyền đơn độc không còn biết lùi về đâu để khỏi đụng phải đá xếp thành hàng sẵn…
Trong trận đá đó, người lái đò đã hai tay giữ mái chèo để giữ cho anh ta không bị hất ra khỏi những con sóng đánh nhau và bắn thẳng vào anh ta. Khi dòng sông Đà giáng đòn thập tử nhất sinh, nước bám vào thuyền như một đô vật bám vào eo mình để rồi lật úp giữa dòng nước giông tố, thì ông lão vẫn kiên trung, bình tĩnh, đầy mưu trí trong vai trò người chỉ huy, chèo lái con thuyền vượt ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết thương, chân vẫn kẹp chặt vào tay lái, mặt méo xệch như sóng vỗ tới tấp.
“Loạt vi đá đầu tiên đã hoàn thành”, người lái đò “phá vỡ vòng thứ hai”. Người lái đò nắm chắc mưu kế của thần sông, thần đá. Vòng thứ ba ít cửa hơn, bên phải và bên trái đều là luồng chết, nhưng người lái đã chủ động “tấn công”: Cứ cho thuyền chạy thẳng, lao qua cửa giữa. Con thuyền hú còi qua những cánh cổng đá đóng mở. Lượn lờ, bay vút, cửa ngoài, cửa trong và cửa trong cùng, con thuyền như mũi tên tre vừa thoắt ẩn thoắt hiện trong hơi nước, vừa đâm xuyên, vừa tự động bẻ lái. Trong cuộc chiến đấu không cân sức đó, người lái đò chỉ có một tay cầm để chèo, con đò không quay trở lại và dòng sông như mang trong mình sức mạnh siêu nhiên của một con thủy quái. Tuy nhiên, cuối cùng người lái đò vẫn chiến thắng, khiến các tướng đá tái mặt vì phải thua con đò nhỏ.
Chiếc phà trong tác phẩm là một người công nhân vô danh, nó hoạt động lặng lẽ, giản dị, nó đánh tan dòng sông hung ác bằng công việc của mình, nó trở nên to lớn, kỳ vĩ, nó trở thành đại diện của CON NGƯỜI. Người lao động nhờ có ý chí kiên cường, bền bỉ và quyết tâm đã chiến thắng được sức mạnh thần thánh của tự nhiên. Đây chính là yếu tố làm nên phẩm chất của người vàng mười Tây Bắc.
Nổi bật và độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà là phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong tác phẩm của Nguyễn Tuân có nghĩa rộng, không chỉ nhà thơ, nhà văn, mà những người ít dính dáng đến nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu tác phẩm của họ đạt đến mức tinh tế, thăng hoa. Trong Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã xây dựng hình tượng người nghệ sĩ lái đò mà nhà văn trân trọng gọi là người lái đò tài hoa.
Nghệ thuật ở đây là nắm chắc quy luật tất yếu của sông Đà và vì làm chủ được nên mới có tự do. Luật sông Đà là một luật hà khắc. Một sự thiếu bình tĩnh, thiếu chính xác hay sai lầm nhỏ, sẽ phải trả giá bằng cả mạng sống. Nhưng ngay cả ở những con sông không có thác nước, người ta cũng dễ dàng chìm vào giấc ngủ. Tóm lại, ở đâu cũng nguy hiểm. Lão lái đò thuộc sông, thuộc quy luật của những hòn đá trong con nước nguy hiểm này và lão nắm chắc mưu kế của thần sông, thần đá. Vì vậy, trong trận chiến ông thông minh và bình tĩnh như một nhà chỉ huy quân sự tài ba. Tất cả các giác quan của ông lão hoạt động phối hợp nhịp nhàng, chính xác. Ra trận, lúc nào cũng ung dung, thanh thản như chưa từng vượt thác: Sóng rì rào tan trong ký ức. Dòng sông êm đềm trở lại.
Đêm đó, nhà thuyền đốt lửa trong hang, nướng ống cơm và nói chuyện về cá Anh Vũ, cá đuối xanh và những hang động mùa khô với âm thanh ầm ĩ như mìn nổ ngập ruộng. Về chiến thắng trong nước vừa qua cũng vậy, với toàn những tướng lĩnh hung hãn, không có ai để nói chuyện. Cũng như những nghệ sĩ chân chính, sau khi vắt kiệt sức lực để mang thai, ít ai ghi nhận công sức của họ. Nhà văn Nguyễn Tuân nhận xét: Cuộc sống của họ là hàng ngày vật lộn với dòng sông hung dữ Vâng, hàng ngày giành giật sự sống của những dòng thác nên chẳng có gì phải hồi hộp. Không thể nào quên… Đó là những gì họ nghĩ khi ngừng chèo thuyền. Có thể anh hùng giàn giáo không thấy được, nhưng nhìn giàn giáo tài ba thì chỉ có Nguyễn Tuân.
III. Kết thúc
Bài tùy bút “Con đò sông Đà” là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân. Tác phẩm không chỉ tôn vinh vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc mà còn tôn vinh vẻ đẹp bình dị, anh hùng, tài hoa của người dân lao động nơi đây. Qua đây, nhà văn Nguyễn Tuân đã thể hiện tình yêu đất nước, niềm tự hào và tâm huyết, sự gắn bó chân thành của mình với núi rừng Việt Nam.