
Chị em Thúy Kiều
(Trích Truyện Kiều Nguyễn Du)
Nội dung.
Hai người phụ nữ đầu tiên tố cáo[1],
Thuý Kiều là em, em là Thuý Vân.
Trái tim của con đường[2] tinh thần tuyết[3],
Mỗi người đều có ngoại hình mười rưỡi.
Chiếc xe trông lễ hội tuyệt vời,
hình trăng tròn[4] đặc điểm của anh nở[5].
Hoa cười ngọc trang nghiêm[6],
Mây mất màu tóc tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So tài khu vực hơn trở lại:
nước mùa thu[7] màu xuân[8],
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước[9],
Sắc phải đòi một tài mới được hai[10].
Trí thông minh vốn dĩ là thần thánh,
Sự pha trộn của thợ sơn ca đầy mùi của những khúc ngâm.
cung chúa[11] ngũ cung[12],
Nghề riêng của anh là ăn uống Hồ Chí Minh[13] một trường học[14].
Bài hát nhà chọn một chương[15],
“Số phận bạc”[16] nhiều bộ não hơn.
Phong cách rất mực hồng quần[17],
Mùa xuân sẽ đến quầy.
Âm thầm rũ xuống và phủ kín,
Bức tường đầy ong bướm[18] Về nhà và mặc quần áo cho ai đó.
Ghi chú:
[1] Đối với Ng: chỉ là một cô gái xinh đẹp.
[2] Mai cốt phong: cốt của cây mai dáng mảnh, thanh thoát.
[3] Snow Spirit: Một tinh linh tuyết trắng và tinh khiết. Câu này có nghĩa là cả hai chị em đều duyên dáng, cao quý và trong sáng.
[4] Khuôn mặt trăng rằm: Khuôn mặt đầy đặn như trăng rằm.
[5] Nét ngài đầy đặn (nét ngài: đường lông mày): ngài nói rằng lông mày của ngài hơi đậm, điều này miêu tả đôi mắt đẹp của ngài. Cả hai câu thơ đều nhằm miêu tả vẻ đẹp nhân hậu của Thuý Vân. Thành ngữ Việt Nam có câu “Mắt phượng, mắt em”.
[6] Khiêm tốn: trang nghiêm, đoan trang (chỉ nói về phụ nữ).
[7] Thu thủy: nước mùa thu.
[8] Sắc xuân: đặc điểm của mùa xuân núi rừng. Cả câu thơ nói rằng đôi mắt đẹp và trong như nước mùa thu, và đôi lông mày đẹp và khí chất như núi mùa xuân.
[9] Nghiêng nước nghiêng thành: lấy nghĩa của câu Hán tự, có nghĩa là: ngoảnh đầu lại là đổ, ngoảnh lại một lần nữa thì trời nghiêng đất đổ. Nghĩa là sắc đẹp tuyệt trần của người phụ nữ có thể làm say lòng người đến nỗi mất thành, mất nước.
[10] Nguyên câu: về sắc chỉ có Kiều là hơn cả, về tài có thể có người khác.
[11] Thực hiện các bước: ghi nhớ các cấp độ.
[12] Ngũ âm: năm nốt nhạc trong thang âm cổ nhạc (cung, thương, trường, chũm, vũ).
[13] Đàn hạc: Đàn hạc của người Hồ, một loại đàn giống đàn nhị của Việt Nam. Người Trung Quốc thấy nó xuất hiện ở phương bắc nên gọi là đàn hạc của người Hồ. Ta thường hiểu chim hồ điệp là đàn bà, đàn bà.
[14] Một cây: một cây. Sách có câu: “Cầm một thế, một kỳ” (Một cây, một nước cờ).
[15] Thế chương: trong bài.
[16] Còn “Bắc mệnh”: bản nhạc mang tên “Bắc mệnh” (Bắc mệnh: số mệnh mỏng manh, có nghĩa là xui xẻo); não người: làm cho lòng người buồn đau.
[17] Hồng quần: quần màu đỏ, chỉ phụ nữ (thời xưa phụ nữ quý tộc ở Trung Quốc thường mặc quần màu đỏ).
[18] Con ong và con bướm: yêu thôi, nhưng hơi thô lỗ.
Một đoạn văn được đặt ở đầu tác phẩm giới thiệu về gia cảnh của Kiều. Khi giới thiệu các thành viên trong gia đình Kiều, tác giả tập trung miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân và Thúy Kiều.
BÀI TẬP.
câu hỏi 1: Tìm hiểu cấu trúc của bài thơ và nhận xét cấu trúc này có quan hệ như thế nào với trình tự miêu tả tâm trạng của tác giả?
câu 2: Những hình ảnh nghệ thuật nào mang tính ước lệ khi miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân? Qua những bức hình này em thấy Thụy Vân có vẻ đẹp và cá tính riêng như thế nào?
câu 3: Khi miêu tả vẻ đẹp của Thúy Kiều, tác giả đã sử dụng một hình tượng nghệ thuật ước lệ, theo em nét giống và khác với Thúy Vân là gì?
câu 4: Ngoài vẻ đẹp hình thức, tác giả nhấn mạnh vẻ đẹp nào ở Thúy Kiều? Những nét đẹp ấy chứng tỏ Thúy Kiều là người như thế nào?
câu hỏi 5: Người ta thường nói vẻ đẹp của Thúy Vân “mây thua nước tóc tuyết nhường da”, và vẻ đẹp của Thúy Kiều “hoa ghen, liễu kém xanh” báo trước số phận của hai người. Bạn có nghĩ rằng tôi đúng? Tại sao?
câu 6: Trong hai bức chân dung Thúy Kiều và Thúy Vân, em thấy bức chân dung nào nổi bật hơn, vì sao?
Soạn bài:
Chị em Thúy Kiều
(Trích Truyện Kiều Nguyễn Du)
câu hỏi 1:
– Bốn câu đầu: khái quát về hai chị em Thúy Kiều;
– Bốn câu thơ tiếp: vẻ đẹp của Thuý Vân;
– Mười hai câu tiếp: vẻ đẹp của Thúy Kiều.
– Bốn câu thơ cuối: nhận xét chung về cuộc đời và phẩm hạnh của hai chị em
Trình tự miêu tả nhân vật:
– Bốn câu đầu khái quát vẻ đẹp chung và riêng của mỗi người. Sau đó đi sâu miêu tả vẻ đẹp của từng nhân vật.
– Bốn câu sau tả rõ hơn vẻ đẹp của Thuý Vân từ khuôn mặt, lông mày, mái tóc, nước da… đều toát lên vẻ đẹp đầy đặn, nhân hậu.
Bức chân dung Thuý Vân được miêu tả trước đó làm nền cho việc nhấn mạnh vẻ đẹp của Thuý Kiều trong mười hai câu thơ tiếp theo.
– Mười hai câu sau miêu tả vẻ đẹp của Thúy Kiều với sắc đẹp, tài năng và tình yêu. Đó là một vẻ đẹp toàn diện.
– Bốn câu cuối tóm tắt cuộc đời phong phú, nề nếp và phẩm hạnh của chị em Kiều.
→ Kết cấu như vậy vừa chắc chắn, vừa hợp lý lại góp phần nhấn mạnh vẻ đẹp chung và riêng của hai chị em Thúy Kiều.
câu 2:
– Nét độc đáo trong vẻ đẹp và tính cách của Thuý Vân được miêu tả bằng những hình ảnh ước lệ (trăng, nụ cười, ngọc, mây, tuyết) trong bốn câu thơ:
“Bên ngoài trông lễ hội tuyệt vời,
Vầng trăng tròn trĩnh nhấp nhô theo nét anh.
Nụ cười hoa ngọc, trang nghiêm,
Mây mất màu tóc tuyết nhường màu da”.
→ Vẻ đẹp của Thúy Vân được miêu tả là sang trọng, quý phái, đầy đặn, nở nang… về nhan sắc; đàng hoàng, thật thà, tốt bụng… về tư cách. Hình ảnh chân dung, tính cách còn có tác dụng gợi số phận: cuộc sống an nhàn, tĩnh lặng.
câu 3:
* Giống nhau:
– Miêu tả vẻ đẹp của Kiều, tác giả cũng sử dụng những hình ảnh nghệ thuật ước lệ: mùa thu, sắc xuân.
– Chân dung Thúy Kiều còn là chân dung tính cách, số phận: Sắc đẹp của Kiều khiến Tạo hóa phải ghen ghét, đố kỵ → linh cảm về một số phận hay thay đổi, đau đớn, dằn vặt.
* Sự khác biệt:
– Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật đòn bẩy, tả Thúy Vân trước để làm nổi bật chân dung Thúy Kiều.
– Nguyễn Du chỉ dành bốn câu thơ để tả Vân, trong khi ông dành mười hai câu thơ để tả vẻ đẹp của Kiều.
– Vẻ đẹp của Vân phần lớn liên quan đến ngoại hình, còn vẻ đẹp của Kiều liên quan đến sắc đẹp, tài năng và tâm hồn.
câu 4:
Bên cạnh vẻ đẹp hình thức, nhan sắc tác giả đề cao vẻ đẹp tài năng và tâm hồn của Kiều. Ở Kiều có sự hội tụ đầy đủ các tài sắc theo quan niệm tư tưởng phong kiến: cầm – vấn – vấn – họa.
– Trong đó, tác giả đặc biệt nhấn mạnh tài đánh đàn của Kiều (Nghề ta ăn hồ tử) và miêu tả tính cách đa sầu, đa cảm của Kiều qua bài hát “Bạc mệnh” do chính nàng sáng tác.
– Cũng như khi miêu tả Thúy Vân, chỉ riêng tài năng và sắc đẹp của Thúy Kiều cũng gợi ra điềm báo về số phận, chỉ riêng tài năng của Kiều lại gợi ra sự nghiệt ngã, đau khổ của kiếp người. số mệnh (theo quan niệm “tương phú” của tư tưởng trung đại). Bởi vậy mới nói: vẻ đẹp của Thúy Vân “Mây rụng tóc, tuyết nhường màu da”, còn vẻ đẹp của Thúy Kiều “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh” là dự đoán số phận của hai người hợp lệ.
câu hỏi 5:
Trong những từ ngữ miêu tả Thúy Vân thể hiện vẻ đẹp dịu dàng, nhân hậu, nàng sẽ có cuộc sống bình yên, suôn sẻ. Khi tả nàng, Nguyễn Du thật tinh tế khi dùng từ “bỏ cuộc” “thua cuộc”” trước vẻ đẹp của làn da và mái tóc.
– Còn Thúy Kiều là ngôn ngữ gợi tả “độ mặn“, cùng với vẻ đẹp ấy là những bông hoa muống biển “ghen”, liễu phải “ghét”, vẻ đẹp của cô ấy còn hơn cả những gì tạo hóa ban tặng. Do đó, cuộc sống được dự đoán là đầy khó khăn, số phận và bất hạnh.
Một câu 6:
Trong hai bức chân dung Thúy Vân và Thúy Kiều, bức chân dung Thúy Kiều nổi bật hơn cả. Điều này phù hợp với dụng ý nghệ thuật của tác giả khi sáng tác Truyện Kiều: toàn bộ tác phẩm tập trung vào câu chuyện về cuộc đời đau khổ của nàng Kiều. Điều này thể hiện ở sự khác biệt về số lượng câu thơ dành để miêu tả hai nhân vật này (4/12). Vẻ đẹp của Thúy Vân được miêu tả ở khía cạnh nhan sắc và tư chất, còn vẻ đẹp của Thúy Kiều được miêu tả ở khía cạnh sắc đẹp, trí tuệ và tâm hồn. Thuý Vân tuy là em nhưng lại được miêu tả trước vì tác giả muốn làm nền làm nổi bật chân dung Kiều.
Phân tích vẻ đẹp và tài năng của Thúy Kiều qua đoạn văn Chị em Thúy Kiều
Phân tích bút pháp ước lệ trong Đoạn chị em Thúy Kiều