
Giá trị nhân văn trong truyện “Lão Hạc”
Nhắc đến Nam Cao là nhắc đến một nhà văn viết truyện ngắn hiện thực xuất sắc đầu thế kỉ XX của nền văn học Việt Nam. Qua những tác phẩm viết về người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nam Cao đã bộc lộ cái nhìn nhân văn, yêu thương và kính trọng đối với những người dân quê khổ sai. Tư tưởng đó còn được thể hiện sâu sắc trong truyện ngắn nữa cần cẩu cũ.
Truyện ngắn “Lão Hạc” được xuất bản lần đầu năm 1943, nhân vật chính là lão Hạc – một nông dân nghèo chất phác, vợ Lão mất sớm để lại lão và đứa con trai trong ngôi nhà mà tài sản duy nhất của lão là mảnh vườn và “cậu vàng”. ” – một con chó đã được mua bởi con trai của mình. Con trai ông vì nhà nghèo không lấy được vợ, phải đi làm thuê trong đồn điền cao su, còn ông ở nhà lủi thủi chắt chiu tiền lo cho con. Sau khi bị bệnh, tất cả tiền dành dụm đều biến mất, ông đành phải bán “chú vàng” của mình dù đang đau đớn trong lòng, rồi gửi tiền bán chó và ruộng vườn cho cô giáo nuôi con trai. Anh đã tự kết liễu đời mình bằng mồi chó, cái chết đau đớn nhưng rạng ngời phẩm chất cao quý. Đồng cảm với số phận nghèo khổ của người nông dân, qua tác phẩm, Nam Cao đã lên tiếng lên án xã hội hiện đại thối nát, bất công, không có chỗ cho những con người có nhân cách cao cả như ông được sống. Tác phẩm có giá trị nghệ thuật sâu sắc, thể hiện phong cách độc đáo của nhà văn Nam Cao, diễn biến của câu chuyện được kể theo lời kể của nhân vật tôi khiến cho câu chuyện gần gũi, chân thực với ngôn ngữ hệ thống, mộc mạc, dễ hiểu, đậm chất triết lý.
Giá trị nhân đạo của tác phẩm trước hết được khẳng định qua sự đồng cảm của nhà văn đối với số phận bất hạnh của các nhân vật trong tác phẩm. Tất cả những con người trong tác phẩm này đều là nạn nhân của xã hội phong kiến nửa thực dân. Họ phải đấu tranh chống nạn đói, các hủ tục phong kiến, v.v. Và mỗi người đều có những nỗi khổ của riêng mình. Nhân vật chính lão Hạc là một người có hoàn cảnh vô cùng éo le. Vợ ông mất sớm, chỉ còn lại đứa con trai duy nhất. Ông phải một mình đối mặt với tuổi già, bệnh tật, đói khát và cô đơn. Nhà văn hay nhân vật ông giáo trong tác phẩm không khỏi đồng cảm: “lúc nào cũng vậy, chỉ mấy hôm thầy ăn khoai”.
Còn con lão Hạc là một người đáng thương. Vì nhà nghèo, anh không cưới được người con gái mình yêu. Chán nản, anh bỏ làng đi vá lốp, với lốp “đi dễ khó về”, “đi trai bao dễ, về cũng dễ”. Ông bỏ cha già đã mấy năm, câu chuyện đã khép lại mà nhân vật người đọc chưa thấy, câu hỏi về số phận của ông đành phải im lặng… Ông giáo, một người đáng kính trong làng, lúc bấy giờ cũng là nghèo và rụt rè, anh sống một cuộc đời “lởm khởm”, “thấm dột, ẩm mốc”. Có thể nói, “Lão Hạc” đã thể hiện tấm lòng thương cảm, đồng cảm với mọi tầng lớp dân nghèo trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.
Nhưng sống trong nghèo khó mà không bị cái nghèo bào mòn là một đức tính đáng quý của người nông dân Việt Nam. Và một biểu hiện quan trọng nữa của giá trị nhân đạo trong tác phẩm là nhà văn nhận thấy mình đã nâng niu, nuôi dưỡng và ngợi ca những nét đẹp trong sáng trong tâm hồn của những người đồng hương.
Nhân vật trong “Lão Hạc” hầu hết là những con người giàu lòng yêu thương. Tình cha con trong nhân vật lão Hạc đặc biệt cảm động. Dù rất đau lòng nhưng chấp nhận sự cô đơn và tiếc nuối, ông đã đồng ý để con trai tự ý ra đi. Em đi rồi, anh chỉ còn con chó Vàng làm bạn. Lão Hatz yêu quý Golden Dog đến mức gọi nó là “Cậu bé vàng”, vì vậy nó sẽ ăn bất cứ thứ gì nó ăn, cho nó ăn vào bát như một người đàn ông … Điều đó không đơn giản vì ông là người yêu động vật. Hãy nghe ông già tâm sự với cô giáo: con chó là của cháu ông. Thế nên lão Hạc thương con Vàng nhất vì đó là kỉ niệm duy nhất mà lão còn lại. Anh ấy đã dành cho con chó đó tất cả tình yêu thương của người cha. Khi bán Con Vàng, “anh khóc như một đứa trẻ”, “mắt rưng rưng”…
Không những thế, ông còn chấp nhận cái chết để giữ đất cho con cháu. Cái đói đeo đuổi anh gần như đến cùng. Còn một con đường nhỏ nữa là bán mảnh vườn lấy tiền ăn nhưng ông nghĩ: đó là mảnh vườn mẹ để lại cho mình… Và ông chọn cái chết chứ không bán đất cho con. Con trai lão Hạc đi vì uất ức, nhưng trước khi đi lão Hạc vẫn để lại cho cha ba nén bạc. Ngay cả thầy, dù gia đình còn đói khổ vẫn luôn cố gắng giúp đỡ, cưu mang người hàng xóm bất hạnh…
Sống trong cảnh đói rét nhưng không bị cái nghèo làm cho què quặt, tủi nhục, cái đáng quý nhất của người nông dân Việt Nam trước cách mạng là lòng tự trọng rạng rỡ trong họ. Lão Hạc thà chết đói chứ không ăn củ sắn của hàng xóm. Lẽ ra ông có thể bán mảnh vườn để lấy tiền chống đói, nhưng ông đã không làm thế vì ông quyết tâm không ăn thức ăn của bọn trẻ. Anh ta cũng có thể chọn con đường giống như Binh Tư là đánh chó để giành miếng ăn. Và nó không bao giờ làm. Người đó khi chết vẫn lo làm phiền hàng xóm nên dành dụm gửi tiền cho thầy làm ma. Cảm động nhất là sự đau lòng của anh sau cái chết của Zlatni. Anh dằn vặt với ý nghĩ mình đã “lừa được con chó”. Nở cũ! Bên trong thân hình già nua gầy guộc của ông ẩn chứa một tâm hồn cao thượng và đáng trân trọng!
Đồng cảm với hoàn cảnh khốn cùng của người lao động, đặc biệt là người nông dân Việt Nam trước cách mạng và ca ngợi những phẩm chất cao quý của họ là những biểu hiện quan trọng của giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “Lão Hạc” của Nam Cao. Viết về người nông dân Việt Nam trước cách mạng, giọng Nam Cao lạnh lùng, dửng dưng nhưng sâu thẳm trong đó ẩn chứa một tình yêu sâu nặng, mãnh liệt.