
Đôi nét về tác giả Nguyễn Trung Thành, hoàn cảnh ra đời tác phẩm Rừng Rắn.
của Nguyễn Trung Thành.
– Nguyễn Trung Thành là nhà văn có duyên với Tây Nguyên. Trải qua hai cuộc kháng chiến, cùng gắn bó với nhân dân địa phương, họ đã cho Nguyễn Trung Thành những hiểu biết vô cùng sâu sắc về miền quê vang vọng tiếng cồng chiêng trong mùa lễ hội, nơi có những người con dũng cảm, kiên trung.
– Nếu như trong kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Trung Thành – bút danh nổi tiếng của Nguyên Ngọc sa “Nhà nước trỗi dậy”; Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhất là năm 1965 khi cuộc kháng chiến nhân dân ở miền Nam đang diễn ra sôi nổi, Nguyễn Trung Thành đã cho ra mắt bạn đọc những truyện ngắn. “Rừng rắn”. Tác phẩm này là một bản anh hùng ca, ca ngợi cuộc sống và con người Tây Nguyên trong cuộc chiến tranh vĩ đại.
Truyện ngắn về rừng.
Hoàn cảnh sáng tác.
– Tác phẩm được viết vào năm 1965 khi giặc Mĩ đổ quân lên vùng biển Chu Lai – Quảng Nam. Đó là thời điểm người viết muốn viết bài Chiến sĩ Tổng công trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước để động viên, cổ vũ nhân dân bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
– Truyện đã đăng trên tạp chí Giải phóng quân miền Trung, sau đó được in trong tập Trên quê hương anh hùng Điện Ngọc.
Tóm tắt nội dung “Rừng xà nu”:
Mở đầu câu chuyện là cảnh có một rừng xà cừ rất lớn. “tầm bắn pháo”’ của kẻ thù ưỡn bộ ngực to lớn của mình để bảo vệ làng Soman. Sau 3 năm đi lính, Tnú được cấp trên cho phép về thăm làng một đêm. Bé Heng ngày nào giờ đã trở thành một cô bé chững chạc và nhanh nhẹn trong giao tiếp. Dit nay đã trở thành bí thư chi bộ và là đảng viên chính trị vững chắc của xã hội. Đêm đó Má kể cho cả làng nghe về cuộc đời của Tnu. Lúc đó Mỹ Diệm khủng bố gắt gao, Quyết dẫn Tna và Mai đi giúp nuôi cán bộ cách mạng từ nhỏ. Địch bắt được anh, 3 năm sau anh lại vượt ngục Kon Tum. Khi đó Quyết hy sinh và Tnu kết hôn với Mai. Anh tiếp tục với những người dân làng đang mài giáo và chuẩn bị cho trận chiến. Giặc nghe tin, về làng càn quét, khủng bố. Giặc bắt vợ con anh, tra tấn dã man trước mắt anh. Nổi cơn thịnh nộ, anh lao vào giữa đám lính, nhưng không thể cứu được mẹ con Mai. Giặc bắt được ông, quấn khăn tẩm xà phòng và đốt các đầu ngón tay. Anh Mết cùng thanh niên trong làng nổi dậy giết cả bộ đội cứu Tnú. Sau đó ông gia nhập Giải phóng quân. Câu chuyện kết thúc bằng việc tôi và Dít tiễn Tnú trở lại đơn vị, trước mặt là những cánh rừng thảo nguyên nối tiếp nhau đến tận chân trời.
Ý nghĩa nhan đề “Rừng rắn”.
– Nhan đề là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà văn. Hình ảnh rừng xà nu là linh hồn của tác phẩm. Cảm hứng chủ đạo và dụng ý nghệ thuật của nhà văn bắt nguồn từ hình tượng này.
– “Rừng xà nu” là hình ảnh trung tâm có vẻ đẹp riêng, gắn bó mật thiết với đời sống vật chất và tinh thần của người dân Cao nguyên Trung tâm, là biểu tượng cho những phẩm chất cao quý của người dân Cao nguyên Trung tâm: sức sống mãnh liệt, kiên cường, bất khuất, khao khát tự do.
– Nhan đề gợi chủ đề, cảm hứng sử thi cho truyện ngắn.
Một biểu hiện của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
+ Đối tượng: Viết về cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ; số phận và con đường giải thoát của dân làng Soman) không chỉ là vấn đề sinh tử của một làng ở Tây Nguyên mà là của cả dân tộc Việt Nam.
+ Hệ thống nhân vật mà tiêu biểu là Cu Mét, Tnú và Dít: họ đều là những cá nhân anh hùng, kết tinh cao đẹp những vẻ đẹp, phẩm chất của cả cộng đồng các dân tộc ở Cao nguyên Trung Bộ, của cả dân tộc Việt Nam trong đấu tranh (yêu nước). , căm thù giặc sâu sắc, dũng cảm kiên cường, kháng chiến, trung thành với cách mạng…
+ Không gian nghệ thuật: khang trang, tráng lệ.
Kể chuyện: Câu chuyện được kể lại bên bếp lửa qua lời kể của già làng, nhiều người dân làng từ già đến trẻ đều quây quần bên bếp lửa để lắng nghe, không khí rất trang nghiêm.
+ Xây dựng thành công những hình tượng nghệ thuật đặc sắc: Hình tượng cây vỏ sò và khu rừng từ cây Nusa không chỉ thể hiện tính tư tưởng của chủ đề, mang đậm chất sử thi mà còn tạo nên giá trị lãng mạn cho truyện cổ tích.
+ Giọng nói: ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng; ngôn ngữ trang trọng, hào hùng.
Nét nghệ thuật.
+ Làm nổi lên không khí, đậm màu sắc của cao nguyên miền Trung (hình tượng thiên nhiên; ngôn ngữ, tâm lí, hành động nhân vật)
+ Xây dựng thành công hai tuyến nhân vật đối lập gay gắt: giữa kẻ thù (Đức) và lực lượng cách mạng, đại diện là những thế hệ nối tiếp nhau vừa có nét tính cách sinh động, vừa có phẩm chất độc đáo. tính khái quát, tính tiêu biểu (bà Mết, Tnú, Dít,…)
+ Hiển thị thành công hình ảnh thân cây màu trắng hiện thực và tượng trưng, mang chất sử thi và chất lãng mạn cho truyện cổ tích.
+ Nghệ thuật trần thuật sinh động (dệt nên câu chuyện đời nhân vật Tnu và cuộc nổi dậy của cư dân làng Soman; xen kẽ giữa thời gian kể chuyện và thời gian diễn ra sự kiện; phối hợp điểm nhìn,…) để tạo âm hưởng, âm hưởng phù hợp với không gian Cao nguyên Trung tâm.
thẩm quyền giải quyết:
Cảm nhận sự giống nhau và khác nhau giữa nhân vật Việt Nam (Những đứa con trong gia đình) và Tnú (Špa nu).
– Đôi nét về tác giả Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Thi và 2 truyện ngắn “Rừng xà nu” Và “Những đứa con trong gia đình”.
– Khái quát vấn đề đặt ra: những điểm giống và khác nhau trong hình tượng nhân vật Việt Nam và Tuy-ni-di.
1. Chữ Việt:
– Tinh thần, ý chí, quyết tâm chiến đấu của nhân vật trong hoàn cảnh khó khăn, gian khổ nhất: bị thương, mất đồng đội, một mình giữa chiến trường, Việt vẫn nhìn vào họng súng của đồng đội nổi tiếng phân biệt rõ ràng giữa ta và người. địch, luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu…
2. Nhân vật Tnú:
– Tinh thần, ý chí và quyết tâm chiến đấu trong hoàn cảnh khó khăn, gian khổ nhất của nhân vật: bị bỏng mười đầu ngón tay vẫn nghiến răng chịu đựng, nhớ lời cha dặn, quyết không khóc….
3. Điểm giống và khác nhau của hai nhân vật:
* Điểm tương đồng:
– Cả hai nhân vật đều phải chịu đau đớn về thể xác, đơn độc trong trận chiến.
– Là mẫu mực của người chiến sĩ dũng cảm, gan góc, tuyệt đối trung thành với cách mạng và Tổ quốc.
– Một biểu tượng tuyệt vời của thế hệ trẻ Việt Nam thời chống Mỹ cứu nước
* Sự khác biệt:
– Nhân vật Việt: Chiến đấu với tinh thần dũng cảm, lạc quan, hồn nhiên, yêu đời, niềm tin vào cách mạng, tình đồng chí. Ở Việt Nam, hầu như chỉ có nỗi đau thể xác do chấn thương.
– Nhân vật Tnú: Anh chiến đấu kiên cường và lòng căm thù giặc sâu sắc, bởi anh vừa trải qua những biến cố, mất mát trong cuộc sống riêng tư (vợ con anh bị giặc giết ngay trước mắt anh). Ở Tnú, đó là nơi cộng hưởng cả nỗi đau thể xác lẫn tinh thần.
Thông qua hình tượng nhân vật Việt và Xuy-ê, hai nhà văn đã giúp người đọc khám phá, khâm phục và tự hào về vẻ đẹp anh hùng cách mạng của những con người bình dị, giản dị mà anh dũng, bền bỉ và hết sức tận tụy, tận tụy, trung thành với cách mạng. Sự tận tụy với lý tưởng cách mạng của hai nhân vật này được thử thách trong hoàn cảnh ác liệt, làm bộc lộ vẻ đẹp phẩm chất anh hùng vốn có của cả dân tộc.
Phân tích truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành