
Lý lẽ: “Xuân Diệu đến giữa chúng tôi trong bộ quần áo thời thượng nhất và chúng tôi ngại ngùng không muốn kết giao với con người xa cách này. Nhưng rồi cũng quen, vì thấy người ta với mình vẫn còn nặng tình đồng hương”. (Hoài niệm)
1. Ý nghĩa câu nói của Hoài Thanh:
– Xuân Diệu đến với thơ ca và có những đóng góp mới cho thơ ca bằng những cách tân nghệ thuật đầy sáng tạo. Nhưng sự đổi mới của Xuân Diệu vẫn có cội nguồn sâu xa trong thơ ca truyền thống.
– Xuân Diệu là một trí thức Tây học, tiếp thu ảnh hưởng của tư tưởng và văn hóa Pháp, đối với thơ ca Pháp, ông chịu ảnh hưởng đặc biệt của trường phái thơ tượng trưng.
Thơ Xuân Diệu thể hiện mối quan hệ qua lại giữa các giác quan và nhạc tính của thơ. Ông là nhà thơ của khát vọng giao tiếp với cuộc đời. Niềm say mê mùa xuân, tuổi trẻ và tình yêu ở Xuân Diệu đã dẫn đến sự cách tân độc đáo trong cảm hứng, thơ và thư pháp; xây dựng hình ảnh, cú pháp, nhịp điệu…
+ Trước Cách mạng tháng Tám, đóng góp của Xuân Diệu không phải ở đề tài mà ở nét độc đáo trong cảm hứng đơn độc của Xuân Diệu. Trước là vì thiếu người, thiếu cái để đi chơi. Tản Đà cô đơn vì “Sống rượu, trống tình, trống bạn”. Còn Nguyễn Bính thì nói: “Cô đơn đã buồn càng buồn/ Khi tạnh mưa bướm vẫn đến vờn”. Nhưng Xuân Diệu thì khác, dù có người, có vật, có cảnh với ông thì đó vẫn là một “đảo hoang”:
Mặc dù chúng tôi tin vào cuộc sống và giấc ngủ,
Anh vẫn là anh, anh vẫn là anh
Có thể đi qua Vạn Lý Trường Thành?
Hai vũ trụ đầy bí mật
(xa)
– Tình yêu trong thơ Xuân Diệu không thể hiện những ám chỉ, ước lệ tượng trưng như trước mà là ý nghĩa cụ thể, trọn vẹn của tình yêu bao gồm cả tâm hồn và thể xác: “Gối anh đây, tay anh đây, em hãy ngả đầu say”, “Một mình em quấn chân không được/ Vòng vai, kề ngực/ Tóc ngắn tóc dài lẫn lộn”
– Trong thơ cổ, thiên nhiên thường được cảm nhận bằng thị giác, ít nhiều bằng thính giác, nhưng Xuân Diệu thưởng ngoạn thiên nhiên không chỉ ở chỗ mà còn bằng xúc giác:
Tôi để da tay mềm mại
Gửi chút âu yếm đến cây cỏ
Chân trần vui nghe đất
Tôi cách xa hàng ngàn dặm
(Đi bộ)
Và để nếm thử:
“Hương dịu dàng, nên gió ngào ngạt”.
Xuân Diệu thường mạnh dạn nhân hóa thiên nhiên. Nhà thơ gán cho những suy nghĩ, hành động, tâm trạng “rất người” một cách tự nhiên và hợp lý:
“Hôm nay trời lạnh, ông mặt trời đi ngủ sớm”
“Đêm đưa tang, hai mảnh khuất cành”
“Cây liễu đứng than khóc
Tóc buồn rơi ngàn giọt lệ”
+ Xuân Diệu chịu ảnh hưởng của thơ ca Pháp thế kỷ 19 về cách diễn đạt, nhịp điệu, cú pháp… nên cách diễn đạt của Xuân Diệu còn quá mới mẻ với độc giả Việt Nam lúc bấy giờ:
Tôi đã chết trong ngày hôm nay
Đã hứa yêu em từ ngàn năm trước
(Ý Thơ)
Hơn một bông hoa đã rụng khỏi cành
Màu đỏ và màu xanh trong vườn
(đây là mùa thu tới)
+ Xuân Diệu cũng đã tìm tòi, sáng tạo ra từ mới:
“Một cơn gió đẹp thì thầm trong những chiếc lá màu xanh”
“Cành xanh xanh run chân”
“Tôi vui vì có trăng tròn”
– Nhưng sự cách tân của Xuân Diệu vẫn bắt nguồn từ thơ truyền thống, mà Hoài Thanh gọi là “tình quê còn nặng”. Là con của một đào kép, Xuân Diệu có điều kiện tiếp xúc và tìm hiểu văn học cổ điển từ rất sớm. Bản thân Xuân Diệu đã tiếp thu một cách tự nhiên ảnh hưởng của văn hóa truyền thống trong quá trình học tập và sinh sống (Ông học ở Qui Nhơn, Huế, Hà Nội và làm việc một thời gian ở Mỹ Tho). Ông tìm đến thơ hiện đại Pháp vì nó diễn tả chân thực những khát khao mãnh liệt trong lòng ông, nhưng Xuân Diệu vẫn gắn bó với thơ dân tộc:
+ Đôi khi ngôn từ Xuân Diệu chọn thật giản dị, mộc mạc:
Anh bình thản bước đi, không làm phiền em
Anh đi chầm chậm không theo em
Vô tâm, nhưng giữa một bài hát lạ
Anh và em như một vần điệu
(thơ tình)
+ Biện pháp tu từ thường thấy trong thơ ca truyền thống:
Cách sử dụng ám chỉ và ám chỉ:
“Xuân đến tức là xuân đi
Xuân còn trẻ nghĩa là xuân đã già”.
“Đây là mật ong và mặt trăng
Đây là những bông hoa của những cánh đồng xanh
Kìa cành lá rung rinh
Và đây là ánh sáng nhấp nháy.”
(nhanh lên)
Có thời điểm sử dụng tối đa từ ngữ trong từ điển tiếng Việt: “Suối mờ rung rinh lá”
2. Nhận xét
– Đánh giá của Hoài Thanh là đúng, các nhà phê bình đã nhìn thấy điều đó ở nhà thơ Xuân Diệu – người mới nhất trong các nhà thơ mới. Ngoài mặt báo, có vẻ rất tây mà nghĩa “nặng nước” vẫn rất Việt Nam. Đây là đặc điểm riêng của Xuân Diệu nói riêng và phong trào Thơ mới nói chung.