
Phân tích thơ “Bài hát ru em bé lớn trên lưng mẹ” Nguyễn Khoa Điềm (từ góc độ thơ)
bài thơ “Lời ru cho con lớn trên lưng mẹ” như một giai điệu ru ngọt ngào, sâu lắng của tình yêu thương con người của tác giả thể hiện ở quan niệm nghệ thuật về con người, cách nhìn nghệ thuật, không gian và thời gian nghệ thuật, giọng điệu và ngôn từ giàu tính sáng tạo.
Trước hết là quan niệm nghệ thuật về con người và nhãn quan nghệ thuật của tác giả. Bài thơ là bức chân dung chân thực, cảm động, hiện thực và thơ mộng về người Việt Nam lao động, chiến đấu, giải phóng quê hương, đất nước. Từ hình ảnh cụ thể về người mẹ địu những đứa con to trên lưng của một bà mẹ dân tộc Tà-ôi ở miền Tây Thừa Thiên trong không gian tác phẩm khi đất nước còn đang trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tác giả niệm hét lên những chân dung con người Việt Nam nói chung chan chứa yêu thương, lao động cần cù phục vụ công cuộc kháng chiến, giải phóng quê hương. Cái nhìn nghệ thuật tập trung vào hình ảnh người mẹ và những đứa con lớn trên lưng. Còn người mẹ, cái nhìn tập trung vào những điểm nhìn nhấn mạnh những tính cách, phẩm chất tiêu biểu:
Chỉ có một, hoàn cảnh tác phẩm: Người mẹ vừa làm việc vừa địu con trên lưng với tất cả tình yêu thương. Đây là một hình ảnh cụ thể của cảm xúc, niềm thương trước sự vất vả, nhọc nhằn: Mồ hôi mẹ rơi trên má nóng hổi,/ Đôi vai mẹ gầy nhấp nhô như chiếc gối; nhưng sau đây là một hình ảnh đẹp về một lí tưởng, một ngày mai tươi đẹp: Tương lai con lớn vung chày ngập sân…
nó là hai Mục tiêu của tác phẩm là vì đại nghĩa: Mẹ giã gạo, mẹ nuôi chiến sĩ; vì các em và dân làng: Em đi hái ngô trên núi Ka-li/; Mẹ thương a-kay, mẹ thương làng đói; tham gia kháng chiến giải phóng quê hương: Mẹ dời chòi, mẹ cưỡi ngựa vào rừng/… Mẹ cõng em ra trận cuối cùng/… Mai sau lớn lên, con sẽ trở thành người tự do.
Vì vậy, mục tiêu công việc có sự tương thích về nhiều ý nghĩa và giá trị, kể cả vì sự tồn tại của cá nhân, vì cộng đồng, vì quân đội, vì sự nghiệp giải phóng Tổ quốc. Cái nhìn của trẻ sơ sinh tập trung vào hai điểm nhìn hiện tại và tương lai.
Về hiện tại, người ta thấy những em bé trong bức tranh rộng lớn trên lưng mẹ với lời ru thấm đượm tình yêu thương, nhắn nhủ và hi vọng của người mẹ: Em Tài ngủ trên lưng mẹ (3 câu đầu của bài thơ). ). Còn tương lai của trẻ thơ được thể hiện qua những hình ảnh đẹp đẽ, khỏe mạnh, tươi vui: Tương lai bé lớn vung chày sân đình/; Tương lai, con cả được chia mười Ka-li/; Tôi sẽ lớn lên để trở thành một người tự do trong tương lai.
Nhìn chung, khái niệm con người đã thể hiện tư tưởng con người cá nhân gắn với cộng đồng, với tổ quốc; người thường bị ràng buộc bởi bổn phận và trách nhiệm; con người vừa bình thường vừa cao quý. Đó cũng là tư tưởng, quan niệm được Nguyễn Khoa Điềm thể hiện trong nhiều bài thơ khác, tiêu biểu là trong trường ca Mặt đường khát vọng: Đất nước nhân dân. Như vậy, cách nhìn ấy chuyển dịch theo lộ trình và xu hướng: từ cái cụ thể đến cái chung, từ hoàn cảnh cụ thể đến hoàn cảnh lịch sử chung; từ gian lao, vất vả, nhọc nhằn đến chiến thắng và tự do. Đặc biệt, sự kết hợp liên quan đến mẹ và bé bao hàm một tư tưởng và triết lý sâu sắc: Người Việt Nam sống trong tình yêu thương, lớn lên trong tình yêu thương… Đây chính là câu trả lời cho sức mạnh Việt Nam, tâm hồn Việt Nam, ý chí và lòng dũng cảm của Việt Nam thể hiện trong mọi thắng lợi trên mặt trận lao động, sản xuất và đấu tranh giải phóng đất nước, bảo vệ Tổ quốc.
Về kết cấu, bài thơ liên hoàn về cấu trúc ngữ pháp và thẩm mỹ trong ba khổ thơ. Mở đầu cả ba đoạn là lời thủ thỉ: Em Tài ngủ trên lưng mẹ/ Ngủ ngoan đừng rời lưng mẹ. Sau đây là đoạn tả cảnh mẹ sinh thành (mỗi đoạn có một nội dung cụ thể) và lời ru trực tiếp của mẹ với những nội dung âm hưởng, khác nhau về chiều hướng phát triển từ cụ thể đến súc tích, từ đời thường đến lí tưởng: Mẹ yêu a- kay, mẹ thương bộ đội (đoạn 1);/ Mẹ thương a kay, mẹ thương làng đói (đoạn 2)/; Tôi yêu akay, tôi yêu đất nước tôi (đoạn 3). Em: Em mơ thấy cho mẹ hạt gạo trắng,/ Hôm sau đứa lớn vung chày, sân trũng (đoạn 1);/ Em mơ thấy em cho mẹ hạt ngô đều,/ hôm sau đứa lớn cho mười Ka-li… (đoạn 2 );/ Em mơ thấy mẹ được gặp Bác Hồ,/ Sau này lớn lên em sẽ là người tự do (đoạn 3).
Cấu trúc đó gắn liền với sự phát triển mọi mặt của không gian nghệ thuật. Bài thơ có mảng việc cụ thể như giã gạo, chặt ngô; vừa có không gian chiến đấu với đổi chòi, đạp rừng, cầm súng, giữ sào, giành thắng lợi cuối cùng trên chiến trường… Đồng thời, cũng có không gian địa lý của đổi ruộng, núi rừng Trường Sơn ; vừa có không gian lịch sử với một đội quân, một trận đánh, một chiến trường, kiểu Mỹ. Trong đó, bao trùm vạn vật và thấm nhuần vạn vật là không gian của tâm trạng, cảm xúc và thẩm mỹ. Đó là không gian của trái tim và ý chí của người mẹ với tình yêu thương dành cho đứa con của mình; tình cảm, ý thức, trách nhiệm đối với cộng đồng làng xã, đối với bộ đội, đối với Bác Hồ, đối với Tổ quốc Việt Nam. Những em bé lớn trên lưng mẹ, được đặt trong không gian tư tưởng và thẩm mỹ cao cả, vị tha, thiêng liêng và rộng lớn ấy, đã lớn lên không chỉ về thể chất mà đặc biệt là tâm hồn, nhân cách, ý chí, lý tưởng và lòng dũng cảm Việt Nam.
Kết cấu đó được thể hiện bằng giọng điệu và ngôn ngữ thích hợp, phù hợp. Giọng điệu của bài hát là lời thủ thỉ, nhắn nhủ tình cảm, kết hợp với lời ru chan chứa yêu thương, tin tưởng và hi vọng. Trong hát ru, nhịp ngắt giữa câu thơ tạo nên hiệu ứng và hình ảnh của nhịp chu kỳ. Ngôn ngữ dân dã, mộc mạc, trang nhã, trau chuốt; cả cụ thể và trực quan, cũng như gần đúng và tượng trưng. Cụ thể, trong tính nghệ thuật toàn vẹn của bài thơ, lời tác giả và lời nhân vật được xây dựng hài hòa, tạo nên sức hấp dẫn cho bài thơ.
Tóm lại, từ một cái nhìn nghệ thuật mới về hình ảnh những em bé lớn trên lưng mẹ, tác giả bài thơ đã lồng ghép, sắp xếp những cảm xúc, suy nghĩ vào cấu trúc một điệp khúc với những biến tấu của một lời ru thân thương. , thành thật, nghiêm túc. Từ đó, các phương diện khác như không gian, thời gian, nghệ thuật, giọng điệu, ngôn từ đều được tứ thơ chú trọng phát triển, tạo cho bài thơ những giá trị hiện thực và nhân văn sâu sắc.