
Phân tích bài thơ Hoàng Hạc Lâu Song Mạnh Hạo Nhiên Chi Quảng Lăng của Lý Bạch (từ góc nhìn thi pháp)
Có hai phương diện nổi bật trong thơ Hoàng Hạc Lâu, Mạnh Hạo Nhiên và Quảng Lãng: cái nhìn nghệ thuật về con người và chữ nghệ thuật. Trong thơ Đường nói chung, cái nhìn về thiên nhiên và con người thường thể hiện sự thống nhất và hài hòa, nhịp nhàng hài hòa; Con người lấy vẻ đẹp của thiên nhiên để gợi tả, miêu tả và bộc lộ tình cảm ngưỡng mộ, yêu mến, say đắm với thiên nhiên. Đặc điểm này đã được Hồ Chí Minh khẳng định trong bài cảm tưởng đọc Thiên Giá Thị (Cảm tưởng khi đọc Thiên Giá Thị):
Thơ xưa yêu cảnh đẹp thiên nhiên mỹ miều,
Sơn Thủy Yên Tuyết Hoa Nguyệt Phong
Dịch bệnh:
Thơ xưa thường chuộng cảnh thiên nhiên
thiên nhiên tươi đẹp,/ núi, nước, khói, hoa, tuyết, trăng, gió
Trong bài thơ Hoàng Hạc Lâu Tống Mạnh Hạo Nhiên, Quảng Lăng của Lý Bạch cũng có vẻ đẹp thiên nhiên, nhưng vẻ đẹp đó độc đáo, mới lạ và đặc biệt khác với thơ Đường nói chung là mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên. không thống nhất, hài hòa, nhịp nhàng. Không gian thiên nhiên trong bài thơ này vừa có điểm, vừa có chỗ (Hoàng Hạc, Châu Dương, Trường Giang) và có chuỗi, nhưng chuỗi đó đồ sộ, rộng lớn và vô tận; Thiên nhiên và vũ trụ được kết nối vô tận (sông Dương Tử chảy vào thiên đường).
Trong bối cảnh của không gian đó, những người trong không gian sẵn sàng tách khỏi bạn bè của họ và rời đi; Người ra đi được xác định thân phận là Mạnh Hạo Nhiên, xuất phát điểm xuất phát chính là lầu Hoàng Hạc. Nhưng, con người được nhận dạng và xác thực đó sẽ dần biến mất, biến mất, biến mất dần trong một cõi vô biên và vô cùng đáng sợ. Đó là cái nhìn nghệ thuật về cá tính độc đáo của Lí Bạch, trở nên mong manh, nhỏ bé, cô độc trước sự vô tận của trời, đất và nước. Quan niệm ấy chứa đựng tình cảm thương bạn nhưng cũng là nỗi băn khoăn lớn của chủ thể trữ tình. Chính cảm giác ấy đã lan tỏa cảm xúc, tâm trạng của con người gửi vào không gian; kéo dài, mở rộng không gian đến vô tận.
Trong một bài thơ khác, Lý Bạch cũng khẳng định tình bạn vượt qua ranh giới của tự nhiên:
Hoa đào nói sâu tận trời
Uông Luân không thể yêu
(Đầm Hoa Đào sâu hàng ngàn mét.)
Tôi không thể so sánh với tình yêu của Uông Luân khi anh ấy tiễn tôi).
Một quan niệm nghệ thuật về con người như vậy được thể hiện ở diện mạo, và nhất là ở ngôn ngữ nghệ thuật với lối miêu tả, gợi hình tài hoa. Miêu tả và gợi hình bằng ngôn từ nghệ thuật Hoàng Hạc Lâu, Mạnh Hạo Nhiên, Quảng Lãng là một trong những nguyên nhân cơ bản tạo nên sự hay và độc đáo.
cái chết của tác phẩm này.
Ngôn từ của bài thơ tạo nên một bức tranh không thể đóng khung bởi kích thước, chiều cao và chiều rộng của không gian và chiều sâu của con người:
Người xưa Hoàng Hạc Lâu,
Yên hoa ba tháng mở Dương Châu.
Cô ấy yêu những bức tranh tường vô tận,
Duyên Trường Giang tự nhiên kiệm.
dịch:
Bạn cũ từ biệt lầu Hoàng Hạc đi về phía tây,
Tháng ba hoa hút, đến Dương Châu.
Bóng cánh buồm xanh biến mất,
Mới thấy Trường Giang vẫn chảy nước trời thế nào.
Hệ thống ngôn từ được xây dựng và sắp xếp theo lộ trình của người đi xa, cũng như thứ tự quan tâm của người bạn của người gửi. Nét độc đáo và thi vị của hệ thống ngôn ngữ là các đơn vị từ xuất hiện với sự mở đầu như một yếu tố chỉ một địa danh đã biết, có ý nghĩa cụ thể, đó là dưới Hoàng Hạc. Theo lộ trình và trình tự ngắm cảnh là thắng cảnh Dương Châu, giữa tháng ba. Vì vậy, ở đây con đường của người xa vẫn được xác định, nhưng ở câu thơ thứ hai, sự rõ ràng, chân thực bắt đầu mờ dần với hình ảnh của mùa khói. Từ đây, bóng người mờ dần rồi mất hút trong khoảng không xanh biếc vô tận, trong mênh mông của dòng Trường Giang chảy về trời.
Tức là những từ xác thực, nhất là qua địa điểm, thời gian, phương hướng đã tự nhiên chuyển sang địa hạt của những từ chỉ cái mơ hồ, mông lung, vô định. Sự tiến triển của ngôn từ trên lộ trình ấy không chỉ diễn tả đặc điểm hình ảnh của một người đi xa mà còn chứa đựng tình cảm nhớ nhung của tác giả khi tiễn bạn đi vào cõi vô cùng khó diễn tả thành lời. Điều này tạo nên giá trị của hình ảnh trong ngôn ngữ nước ngoài (ý tưởng ngoài lời nói).
Trong sự sắp xếp, hài hòa của ngôn từ, người nghệ sĩ tạo ra một không gian khoáng đạt, diệu vợi và vô tận: bức tường vô tận (không gian xanh không có biên giới hữu hạn), Trường giang thiên lưu (sông Trường Giang chảy vào trời); không gian ấy có mờ ảo của yên hoa (hoa khói). Trên cái nền không gian ấy có hai dấu chấm, rất nhỏ, lẻ loi, nhưng khoảng cách dần ngăn cách. Thứ nhất, nơi nhà thơ ở lầu Hoàng Hạc khi gặp lại người bạn cũ Mạnh Hạo Nhiên ở Quảng Lăng. Cánh buồm thứ hai, lẻ loi mà trên đó là người bạn cũ thân thiết của nhà thơ, dần khuất bóng, biến mất vào khoảng không xanh ngắt.
Cấu trúc và tác động qua lại của hai đặc điểm này của từ gây ra nhiều vấn đề liên quan đến triết lý nhân sinh: Con người bé nhỏ, cô đơn trước vũ trụ, còn thiên nhiên bao la, vô tận, kì vĩ, choáng ngợp; Tình cảm yêu thương mà tác giả bài hát dành cho em cũng sâu sắc, rộng lớn như thiên nhiên, vũ trụ. Thơ Đường gợi nhiều hơn tả, lấy cảm để tạo ấn tượng, cảm xúc. Ngôn ngữ nghệ thuật của cây bút lớn này đạt đến mức mẫu mực.
Lý Bạch đã nói lên tình cảm vô hạn của mình với người bạn khi tiễn bạn trong áng văn bất hủ Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng. Tuy nhiên, ngay cả trong một bài thơ về chuyện người, thiên nhiên vẫn tiếp tục mở ra, và con người dường như trở nên nhỏ bé, mong manh, lạc lõng giữa thiên nhiên rộng lớn và chế ngự:
Bạn đi từ cần cẩu ra đường,
Giữa mùa heo hút, Châu Dương đang xuống dốc.
Bóng cánh buồm đã biến mất khỏi bầu trời,
Hãy cẩn thận, bạn chỉ nhìn thấy dòng sông trên bầu trời.
(Ngô Tất Tố dịch)
Ở bài thơ này, hệ thống ngôn từ được xây dựng và phát triển theo lộ trình của người đi xa cũng như theo thứ tự chăm sóc người bạn của người tiễn đưa. Cái độc đáo và thi vị của hệ thống ngôn ngữ là các đơn vị từ xuất hiện trong một hệ thống bắt đầu như một thành tố ngôn ngữ biểu thị một địa danh nổi tiếng, có ý nghĩa cụ thể, đó chính là Đàn cò Lâu Hoàng. Theo lộ trình và trình tự ngắm cảnh là thắng cảnh Dương Châu, giữa tháng ba.
Vì vậy, ở đây con đường của người xa vẫn được xác định, nhưng ở câu thơ thứ hai, sự rõ ràng, chân thực bắt đầu mờ dần với hình ảnh của mùa khói, có nghĩa là thiên nhiên đã thay thế con người. Từ đây, bóng người mờ dần rồi mất hút trong khoảng không xanh biếc vô tận, trong mênh mông của dòng Trường Giang chảy về trời. Như vậy, những từ xác thực, đặc biệt là qua địa điểm, thời gian và phương hướng, mặc nhiên chuyển sang địa hạt của những từ liên quan đến cái mơ hồ, mơ hồ và vô định.
Trong sự sắp xếp, hài hòa của ngôn từ, người nghệ sĩ đã tạo nên một không gian rộng rãi, kỳ vĩ và vô tận: Trường Giang thiên lưu (sông Trường). Giang chảy vào trời); không gian ấy có mờ ảo của yên hoa (hoa khói). Trên cái nền vũ trụ ấy có hai dấu chấm, rất nhỏ, lẻ loi, nhưng đang dần rời xa nhau. Thứ nhất, nơi nhà thơ ở lầu Hoàng Hạc khi gặp lại người bạn cũ Mạnh Hạo Nhiên ở Quảng Lăng. Cánh buồm cô đơn thứ hai, trên đó là người bạn cũ thân thiết của nhà thơ, dần biến mất, biến mất trong màu xanh. Cấu tạo và tác động qua lại của hai đặc điểm này của từ gây ra nhiều vấn đề liên quan đến triết lý nhân sinh: con người bé nhỏ, cô đơn trước vũ trụ, còn thiên nhiên thì bao la, vô tận, kì vĩ, choáng ngợp.