
Phân tích chùm thơ Haiku của Bass (Từ góc độ thơ ca)
Thơ haiku của Basô nổi bật ở quan niệm nghệ thuật về con người. Thơ haiku toát lên những cái nhìn mới mẻ, tinh tế, nhạy cảm và sâu sắc về con người với những góc độ tham chiếu từ nhiều khía cạnh văn hóa, nổi bật là từ thiền, mỹ học, nhân học và tâm lý học. Nhưng để chuyển tải những quan niệm nghệ thuật mới của nhân dân, thơ Hai-ku cần có những kiểu cấu trúc thẩm mỹ đặc thù. Trong đó những chi tiết được đưa ra đôi khi tưởng chừng như chỉ là những mảnh ghép vụn vặt về bức tranh cuộc sống con người, xã hội hay thiên nhiên, nhưng giữa chúng lại có mối quan hệ nội tại. Và quan trọng nhất, phần kết của mỗi bài thơ thường phải soi sáng những ý nghĩa mới một cách bất ngờ và thú vị. Từ đó, ánh sáng chung của toàn bài thơ với tư cách là một hệ thống nghệ thuật sẽ chiếu những tia thẩm mỹ vào từng chi tiết trong bài thơ. Tức là sự ảnh hưởng chung của toàn bộ hệ thống sẽ tạo nên sự liên kết giữa các chi tiết nghệ thuật và đem lại cho mỗi yếu tố những sắc thái thẩm mỹ đặc trưng.
Vì vậy, vai trò của cấu trúc nghệ thuật là vô cùng quan trọng. Với một thể thơ chủ đạo gồm 17 âm tiết, thấm nhuần Thiền tông, những bài thơ Haiku của Bas là những bức tranh màu nước, nhằm khơi gợi những suy nghĩ về những triết lý sâu sắc và những giá trị tinh thần tốt đẹp trong một cái nhìn nghệ thuật về sự hài hòa và tự nhiên, thế giới con người với thiên nhiên và con người. vạn vật trong tinh thần.sự thống nhất.
Thơ hai-ku nhấn mạnh bóng tối, yên tĩnh, mềm mại và nhẹ nhàng. Để tạo nên những giá trị tư tưởng và thẩm mĩ đó, cấu tứ của bài thơ phải đạt đến độ tinh tế, giàu sức gợi và gợi mở. Tiếp cận thơ Hai-ku từ hình thức bên ngoài, người đọc sẽ thấy đó là một tập hợp của hệ thống ngôn từ giản dị, mộc mạc. Tuy nhiên, giá trị mà chúng gợi mở vô cùng sâu sắc, trên cơ sở liên kết các thành tố trong hệ thống chúng tạo nên những ẩn dụ có giá trị thức tỉnh, khai sáng tâm thức, tư tưởng, tình cảm của người đọc.
Bài học đầu tiên:
Xứ sở mười mùa sương giá
Về quê nhìn lại
Edo là quê hương của tổ tiên.
Cũng như các bài thơ Hai-ku khác, bài thơ này không dùng các tính từ gợi tả mà chỉ dùng các danh từ gợi hình. Quê hương của nhà thơ Baso không phải là Edo (Tokyo ngày nay) mà là Mie, và Edo là nơi tác giả đã sống trong mười năm. Tuy nhiên, khi anh trở về quê hương, cách xa Edo, Edo nghiễm nhiên trở thành quê hương của anh. Trong kết cấu bài thơ, đoạn kết bất ngờ mở ra, bộc lộ một chân lý có sức mạnh vũ trụ lớn lao trong nhận thức và tình cảm con người: Khi ta ở chỉ là nơi ở/ Khi ta ra đi đất đã hóa hồn ( Chế Lan Viên). Cả một chân trời về Edo với những kỷ niệm của tác giả về nơi ấy, nằm trong
một chức năng ẩn tạo cảm xúc không giới hạn. Người đọc ngẫm nghĩ về những “Edos” khác trong hoài niệm của riêng mình. Trong cấu trúc của bài thơ, có sự chuyển đổi tinh tế và tự nhiên giữa xứ lạ và quê hương – hai khái niệm đối lập.
Bài đăng thứ hai:
Đỗ quyên cất tiếng hát
Tại thủ đô
Nhưng nhớ thủ đô.
Trước khi chuyển đến Edo, thời trẻ (1666-1672), Baso sống ở thủ đô (Kyoto). Hai mươi năm sau, ông trở lại Kyoto, nghe tiếng hót của hoa đỗ quyên và viết bài thơ này. Trong cấu trúc của bài hát, từ Tsarski được lặp lại, nhưng với một nghĩa khác. Từ thủ đô thứ nhất là thủ đô của hiện tại, và từ thủ đô thứ hai là thủ đô của quá khứ. Cầu nối giữa hai thủ đô là tiếng hót của những chú chim đỗ quyên. Nó là phần nổi của cấu trúc bề mặt; còn phần chìm của công trình lại thuộc trường phái liên tưởng của nỗi nhớ cố đô xưa vốn ăn sâu vào tâm tư, tình cảm của nhà thơ, đó là liên tưởng đến tiếng gọi hoa đỗ quyên. Phần ấy thuộc về cái được gợi ra như cái đẹp trong quy luật tâm lý, thẩm mỹ, tạo nên dư âm của người đọc trong hoài niệm về ngày xưa của mỗi người. Nét độc đáo là giữa bề nổi và bề đáy, bề nổi và chiều sâu của tầm nhìn thể hiện ở cấu trúc liên kết hai không gian: Không gian hiện sinh (Vốn hiện tại) và không gian tinh thần (Ngày mai). Hai không gian đó được nối với nhau bằng một nhịp cầu là song đỗ quyên.
Như vậy, kết cấu của bài thơ tạo hiệu ứng gợi mở, đồng điệu với tâm trạng của vô số độc giả trong những hoàn cảnh cụ thể khác của họ, nhưng cũng giống như thế liên tưởng của tác giả. Sắc đẹp. Theo đó, không chỉ có tiếng đỗ quyên mà còn có tiếng cu gáy, tiếng dế kêu ríu rít…, hay rộng hơn là hình ảnh nào đó của hoa lá, cỏ cây…, cũng gợi nhớ chính xác miền xưa trong không gian hôm nay trong không gian tâm trí con người.
Bài đăng thứ ba:
nước mắt nóng hổi
Tan trong tay tóc mẹ
sương mù mùa thu.
Khi Baso trở về quê hương, mẹ anh đã qua đời và người anh trai đã trao cho anh hài cốt của mẹ anh là một khối tóc bạc. Nỗi buồn và nỗi buồn, Baso đã viết bài hát này. Cấu tứ của bài thơ được xây dựng từ những hình ảnh: giọt nước mắt (nóng chảy tràn) của chính tác giả khóc thương mẹ, mái tóc mẹ (tan trong tay tác giả), sương thu. Sự liên kết các chi tiết trong kết cấu vừa diễn tả hiện thực nỗi đau mất mẹ của tác giả, vừa gợi ra chân lí muôn thuở về sự vô thường của cuộc đời, sự ngắn ngủi của kiếp người đúng như chân lí của tác giả. Đạo Phật chỉ là giọt sương mùa thu, như người ta nói: Đời người như bóng
chim qua cửa người Việt. Kết cấu ấy gợi sự chiêm nghiệm về nhân sinh, một triết lý sống, ứng xử phù hợp với quy luật vũ trụ, nhân sinh, để con người tỉnh táo, không mê muội trong cõi vô thường.
Trong cấu trúc thơ Haiku của Bas, một đặc điểm tiêu biểu và nổi bật khác là sự đột biến của dòng ý thức trong hình tượng thơ, mở ra những khám phá mới, thú vị. , sự ngạc nhiên. Đặc biệt, những khám phá này được thể hiện rất rõ ràng qua những hình ảnh cụ thể, nhưng giá trị khái niệm và phổ quát của chân lý không dừng lại ở mức độ cụ thể của hình ảnh đó, mà vượt ra ngoài ranh giới của hình ảnh đó. Ở cả ba bài thơ trên, sự đột biến của dòng ý thức tạo ra một ý thức mới diễn ra trong mối quan hệ của hai câu thơ thứ hai và thứ ba.
Nói cách khác, đột phá xảy ra ở câu thứ ba. Ở bài đầu tiên, sự thay đổi thật bất ngờ khi tác giả biến xứ lạ thành quê hương. Ở bài thứ hai, có sự đột biến khi thay đổi nội hàm nghĩa bóng ở từ Kinh Đô: Ở kinh đô nhớ việc chính. Với bài thứ ba là sự chuyển nghĩa từ cuộc sống cụ thể, cụ thể là mái tóc mẹ điểm sương mùa thu. Theo đó, nhìn chung, trong quan niệm và nhãn quan nghệ thuật của Bas, cái nhất thời, cụ thể, trực quan bao giờ cũng hàm chứa thuật ngữ thường hằng. Vì vậy, từ những hình ảnh thơ trong mỗi bài thơ, người đọc tìm thấy
Hãy suy nghĩ về bản thân và khám phá những tầng ý nghĩa và cảm xúc mới và sâu sắc.
Khía cạnh thi pháp trong thơ haiku của Baso nói riêng và thơ haiku nói chung không hề phức tạp hay tẻ nhạt. Đối với người đọc, dường như nhà thơ không đặt nhiều nỗ lực vào việc tạo ra các từ hoặc tập trung vào kỹ thuật thơ. Ngôn từ, chi tiết của bài thơ thường giản dị, gợi nhiều hơn tả. Tuy nhiên, để một bài thơ thực sự có giá trị, có ý nghĩa thì quan niệm nghệ thuật, nhãn quan nghệ thuật của nhà thơ phải mới, giàu tính khám phá, sáng tạo, bộc lộ chân lý mới. Trong đó, việc xây dựng kết cấu luôn đóng vai trò quan trọng tạo nên giá trị tư tưởng và thẩm mỹ của bài thơ.