
Phân tích trích xuất “Thúy Kiều ân báo thù” (trích đoạn.) “Truyện Kiều” – Nguyễn Du).
chiết xuất “Thúy Kiều báo thù, báo thù” thấy ở cuối Truyện Kiều và Truyện Kiều. Đoạn văn miêu tả cảnh báo báo thù của hai nhân vật Thúc Sinh và Hoạn Thư, làm nổi bật tấm lòng nhân hậu, cao cả của Thúy Kiều và ước mơ về công lí, lẽ phải dưới góc nhìn của người công.
Ở đây chúng ta chỉ nói đến hai chi tiết: Kiều trả ơn Thúc Sinh và trả thù Hoạn Thư. Tâm lý và cách ứng xử của Thúy Kiều, sự sáng tạo của Nguyễn Du là những điều chúng ta có thể học và cảm nhận được trong bài ca dao này. Từ khi Hải mua Kiều ra khỏi chuồng, Kiều trở thành vợ người ta. Sau khi có địa vị, Thúy Kiều đã báo đáp ân tình của những người đã từng tốt với mình (báo thù) và trừng phạt những kẻ đã hại mình trên bước đường lưu lạc (báo thù).
Thúc Sinh, quản gia, Giác Duyên đều cảm kích. Riêng tên Hoạn Thư và 7 tên kia đã biết:
Xưa là Bác Hanh, Bác Ba,
Một bên là Ung, Khuyển, một bên là Sở Khanh.
Tú Bà với mã học sinh,
Tội phạm có đáng được yêu không?
Ở đây chúng ta chỉ nói đến hai chi tiết: Kiều trả ơn Thúc Sinh và trả thù Hoạn Thư. Tâm lý và cách ứng xử của Thúy Kiều, sự sáng tạo của Nguyễn Du là những điều chúng ta có thể học và cảm nhận được trong bài ca dao này.
Với Thúc Sinh, nàng cảm ơn tình cũ. Sau khi Sở Khanh lừa nàng, Tú Bà đã ép Tú Bà làm gái điếm. Và Kiều đã gặp Thúc Sinh “cũng xuất thân từ gia đình thư sinh”, là con rể của quan thượng thư, một người si tình. “thói quen từ bỏ”. Lúc đầu nó chỉ là “gió trăng”, Nhưng sau này lại thành Thúc Sinh và Thúy Kiều “đá vàng”. Thúc Sinh chuộc Kiều về làm vợ lẽ: “Khoảnh khắc thần chạy trốn khỏi thế giới”. Dù sau này có ghen tuông, tủi nhục nhưng Thúc Sinh nhân điều kiện có thể đã nói với Hoạn Thư đưa Kiều đến gặp Quan Âm. “trông chùa chép kinh”, biến khỏi cuộc đời tôi đi. Mặc dù “phụ nữ yếu đuối mất lý trí” Nhưng tình cảm của Thúc Sinh đối với Thúy Kiều, trong tấn bi kịch, vẫn còn “khó khăn”:
Bây giờ lộn ngược,
Bạn có biết khi nào tham gia nước mới?
Thúc Sinh có thể trách này nọ, nhưng Thúc Sinh là ân nhân của Kiều và chàng đã giúp Kiều hoàn lương. Kiều là người nhân hậu nên không bao giờ quên được chàng.
Trong lúc bôn ba truy lùng, Kiều trông nom gia đình Thúc Sinh để “giữ ngôi”:
Một lần nữa lệnh gửi đã được thông qua,
Cầu cho nhà giàn Thục là nhà bình an.
Cảnh báo đã xảy ra, Kiều dùng từ “gọi” rất quan trọngg “trao kiếm cho Thúc Lang”. Kiều nói về nó “có nghĩa”, về từ “bò”, thúc đẩy đạo đức chung. Shusheng là “pr“, là “lão nhân” người Kiều “dám thất bại”. Nàng khẳng định, ngày xưa Thúc Sinh yêu nàng vô cùng to lớn và sâu đậm: “có nghĩa là hàng ngàn bảng...”. Kiều đã dùng một số từ như: “nghĩa”, “vạn niên”, “sâm thương”, “phục tùng”, “lão nhân”, “lão nhân”…….” với giọng văn nhẹ nhàng, thể hiện tấm lòng kính trọng, biết ơn người đàn ông đã từng yêu thương, cứu vớt mình. Tấm lòng của Kiều rất nhân hậu, từ bi; Cách cư xử của nàng đối với Thúc Sinh thật giàu lòng trung nghĩa và nhân hậu:
Cô nói: “Nghĩa nặng ngàn cân.
Lâm Trí công tử, ngươi còn nhớ sao?
Sầm Thương không cạn lời,
Tại sao có người dám phản bội một ông già?
Lễ vật Kiều trả ơn Thúc Sinh cũng có thật “nữ hoàng”khẳng định ý nghĩa của for “thử” Trong những năm ở Lâm Trí, ông vô cùng sâu sắc:
Xuất trăm vạn cân bạc.
Cảm ơn sao cho xứng đáng với cái gọi là ân huệ.
Sau đó, Kiều nói những lời mộc mạc, đanh thép “vợ của đàn ông”. Đã nhiều năm trôi qua, lòng Kiều vẫn chưa nguôi. “Miếng ngon nhớ đời, đòn đau nhớ mãi” Có đúng không? Vị trí đã thay đổi: một người là tội phạm, người kia là quan tòa ngồi trong lều giữa gốc cây “đại kiếm trường thương”:
Kiều có hai cách nói khác nhau: khi nói ơn thì trang trọng, nhẹ nhàng; Cuộc trò chuyện về sự oán giận là đơn giản, sắc nét. Nguyễn Du đã tạo ra hai giọng, hai ngữ trong một lượt lời của Thúy Kiều, điều đó cho thấy nhà thơ rất tinh tế, sâu sắc khi thể hiện tâm lí nhân vật. Tuy là dịch vụ nhưng lại đứng trước sân khấu “Gậy đất lấp đầy sân”Thu Sinh cực khủng: “Mặt tôi như chàm, tôi có vẻ dễ run,” đổ mồ hôi “ướt cả người”anh ấy không thể nói một lời, anh ấy sống trong một tâm trạng vừa phải “Chào mừng”phù hợp “sợ hãi”:
Trái tim của chính mình vui mừng trong sợ hãi,
Sợ mà thầm mừng cho ai đó.
Với Huân Thu, nàng bị trừng phạt một cách công khai. Đã bao nhiêu năm rồi kể từ đêm đó tôi ghen? Gặp lại Huân Thục lần này, trong hình dạng con người “chiến thắng” Kiều trả thù “Xin chào” trong lời nói “mát mẻ”:
Ngay từ cái nhìn đầu tiên, cô ấy đã nói xin chào:
Cô nương cũng tới đây!
Giọng anh trở nên sắc và đanh. Bức thư “nhiều tay”, “nhiều mặt”, “nhiều gan” như những con dao sắc bén:
Phụ nữ có đôi bàn tay dễ dàng làm sao,
Đời này bao nhiêu mặt, đời này bao nhiêu lá gan!
Kiều nghiêm khắc cảnh cáo Hoạn Thư kẻ đã hành hạ nàng, khiến nàng đau khổ: “Càng cay đắng càng bất công”.
Là “tội lỗi” Hoạn Thư đứng giữa pháp trường, xung quanh là đám đao phủ “khai kiếm” “linh hồn cẩu thả”. Nữ nhân này biết tội, hoàn cảnh của mình, khó tránh khỏi gươm đao? Vốn khôn ngoan khôn ngoan con ạ. “họ Hoon” trấn tĩnh lại, cố tìm cách giải thoát cho cảm giác tội lỗi. Một “hạ gục” để cử hành thánh lễ, khi tay và chân bị trói. Trước hết, hãy thừa nhận nó “ghen tị” và đó là lời giải thích “bình thường” một ngươi phụ nư. Huân Thu tiếp theo nhắc chút “yêu” Ngày xửa ngày xưa: một, Kiều bị đày xuống Quán Âm Các “gác chùa chép kinh”, anh ta không còn bị bắt làm đầy tớ nữa; Thứ hai, khi Kiều cầm chuông vàng bỏ chạy, Kiều không để ý đến. Cách nói rất khéo, chỉ gợi lại sự thật, chuyện xưa mà chỉ người am hiểu mới biết. “Nghĩ cho” là nhớ cho, nghĩ lại cho:
Hãy suy nghĩ khi bạn viết thánh thư,
Nó không đi theo sự kết thúc của tình yêu.
Về phần Kiều, Hoạn Thư từng nói với Thúc Sinh: “Rằng: trọng tài mà trọng tình”. Mặc dù “Chồng chung không dễ chiều chuộng ai”nhưng trong tim tôi, Huân Thư “Thân yêu nhất”‘Thúy Kiều. Hoạn Thư tự thú và xin Thúy Kiều độ lượng:
Với một trái tim để gây rắc rối,
Cũng nhờ vào lượng sát thương trên bất kỳ bài nào.
Lời tỏ tình của Hoạn Thư vừa chí lý, vừa lãng mạn. Một yêu cầu chân thành và chân thành. Vì vậy Kiều phải “khen”. “Khôn ngoan đến mức biết nói.” Nó không thể được “người bé nhỏ”, Kiều tha tội cho Hoạn Thư:
Nếu bạn quá biết ơn, bạn nên
Gửi một mệnh lệnh quân sự cho quân đội để tự giải phóng ngay lập tức.,
Sự việc xảy ra quá đột ngột, ngoài sức tưởng tượng của mọi người. Là người phụ nữ thủy chung, từng trải qua bao cay đắng, bất công ở đời, Kiều cũng biết mình đã xâm phạm đến hạnh phúc của người khác, tha tội cho Hoạn Thư, Thúy Kiều càng tỏ ra mình vô cùng cao thượng. Ai đã từng đọc bản dịch Kim Vân Kiều truyện và so sánh với Truyện Kiều mới thấy hết sự sáng tạo của ngòi bút thiên tài Nguyễn Du, nhất là trong lời cảnh báo báo thù. Khung cảnh tòa án thời trung cổ được mô tả là thông thường, nhưng không kém phần tráng lệ! Lời thoại rất gãy gọn, sắc sảo, nhấn mạnh vào tâm lý, tính cách nhân vật. Thúc Sinh giỏi giang nhưng nhút nhát, Hoạn Thư khôn ngoan sắc sảo, Kiều rất trung thành, cao thượng và bao dung.
chiết xuất “Thúy Kiều báo thù, báo thù” Thể hiện cá tính nhân vật Thúy Kiều và Hoạn Thư qua ngôn ngữ đối thoại. Nguyễn Du đã tạo ra những câu thoại biến hoá để nói lên sự trả thù, những lí do cố hương, ca ngợi lòng trung nghĩa và tình bạn, lên án những kẻ gian ác. Báo thù là một tình tiết rất dũng cảm, làm nổi bật tinh thần nhân đạo của Truyện Kiều. Đoạn thơ thể hiện ước mơ công lý, chính nghĩa từ điểm nhìn của quần chúng nhân dân: người dân bị áp bức, chịu bao đau thương và cán cân công lý: “Thiện gặp thiện, ác gặp ác”.