
Phân tích trích xuất “Tức nước vỡ bờ” (Trích tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố)
Ngô Tất Tố (1893-1954) là nhà văn, nhà báo, dịch giả, nhà nghiên cứu văn học Việt Nam thế kỷ XX nổi tiếng. Ông được mệnh danh là “nhà văn nông dân” vì viết về nông thôn và đặc biệt thành công ở mảng đề tài này. chiết xuất “Tức nước vỡ bờ” một trích dẫn từ cuốn tiểu thuyết “Tắt đèn”tác phẩm hay nhất của Ngô Tất Tố và văn học hiện thực phê phán.
Trong tiểu thuyết “Tắt đèn”, ít nhiều người đọc còn nhớ đến chị gà trống, một người phụ nữ rất hiền lành, nhẫn nhục đã ba lần đứng lên đấu tranh quyết liệt chống lại sự áp bức của bọn thống trị để bảo vệ nhân phẩm của mình, bảo vệ chồng con. những đứa trẻ. Trong đó tiêu biểu nhất là cảnh “Tức nước vỡ bờ” mà nhà văn đã viết trong chương truyện Khó quên, chương thứ 18 của tiểu thuyết “Tắt đèn” nổi tiếng của nền văn học hiện thực phê phán Việt Nam giai đoạn 1930-1945.
Truyện hấp dẫn mô tả xung đột gay gắt giữa kẻ áp bức và kẻ bị áp bức. Giữa cảnh sưu thuế căng thẳng, gia đình chị Dậu bị đẩy đến tận cùng trong tình cảnh khốn cùng nhất: phải bán con, bán đàn chó mới đẻ để có đủ tiền nuôi chị Dậu cứu người chồng đang bệnh tật. bị đánh bên ngoài, gia đình. Nhưng rủi ro mà Mr. Dau lại bị bắt vì vẫn chưa trả tiền cho người anh trai đã mất năm ngoái.
Nhờ hàng xóm giúp đỡ, bà Dậu tìm cách cứu sống chồng nhưng vừa rạng sáng, tên cai lệ và người nhà cầm roi, dây thừng xông vào, tính mạng ông Dậu nguy kịch. Ông chưa kịp húp bát cháo cho vơi đi nỗi đau trong lòng như mong ước của người vợ yêu thì lũ đầu trâu mặt ngựa ập đến như một cơn gió lốc dữ dội khiến ông lăn lộn không nói nên lời.
Thế nên, tình huống vừa mở ra mà mâu thuẫn đã lập tức nổi lên, báo trước tính kịch tính rất cao, tất yếu sẽ dẫn đến cảnh “nước vỡ bờ”.
Bộ mặt độc ác, vô nhân đạo của tên cai lệ và những người thân trong gia đình. Trong phần hai của văn bản này xuất hiện những nhân vật đối lập với chị Dậu. Trong số đó có tên của người cai trị. Một người cai trị là một chỉ huy chỉ huy một nhóm binh lính. Ông cùng những người trong gia đình kéo đến nhà bà Dậu đòi hủy bỏ thuế sưu, một thứ thuế đóng bằng tiền mà người bình dân từ 18 đến 60 tuổi (gọi là thị dân) hàng năm phải nộp cho nhà nước phong kiến thực quyền. mọi người; Thu thập là một công việc khó khăn mà những người bình thường phải làm cho đất nước đó. Gia đình bà Dậu phải nộp tô thuế cho người con rể đã mất năm ngoái, điều đó cho thấy thực tế xã hội lúc bấy giờ thật bất công, tàn nhẫn và vô luật pháp.
Theo dõi hình ảnh cây thước, ta thấy nhà văn hiện thực Ngô Tất Tố đã khắc họa hình ảnh cây thước bằng những chi tiết sắc nét tiêu biểu.ảo.Vừa bước vào nhà, người cai trị lập tức nắm quyền “đập đầu xuống đất”, chủ gọi anh là Dậu “thằng kia”, “mày” và xưng hô “ông nội”, “bố mày”. “Cậu bé đó! Hắn tưởng ngươi đêm qua chết, còn sống? Trả tiền nhanh đi!”
Cai Li đảo mắt và hét lên, “Bạn sẽ nói với cha của bạn? Một công chức dám mở miệng van xin!” Thêm giọng nói mùa hè: “Nếu bây giờ tôi không có tiền trả cho anh, tôi sẽ diệt cả nhà anh, anh thề!…”
Bất ngờ, tên cai giật sợi dây thừng trên tay người này và lao đến chỗ con gà trống: “Hãy tha thứ cho điều này! tha cho tôi!.. Vừa nói, nó vừa túm luôn ngực Gà trống mấy cái rồi xông vào trói lại”.
Ngòi bút của Ngô Tất Tố thật sắc sảo và tinh tế khi ông không dùng một chi tiết nào để miêu tả tâm tư của viên quan trong cảnh này. Ngưu mặt ngựa xem việc đánh người, trói người là chuyện thường ngày, không hề động lòng thương, thì làm sao mà nghĩ được? Nhà văn đã kết hợp những chi tiết tiêu biểu về ngoại hình, lời nói và hành động để khắc hoạ nhân vật. Từ đó ta thấy tên cai lệ bộc lộ tính cách kinh tế, thô lỗ và bất nhân. Từ hình ảnh tên cai lệ này, ta thấy được bản chất của xã hội thực dân phong kiến là một xã hội đầy rẫy những bất công tàn ác, một xã hội có thể hại người lương thiện bất cứ lúc nào, một xã hội tồn tại dựa trên lý lẽ và hành vi bạo ngược. .
Tác phẩm khắc họa hình ảnh đẹp về người nông dân lao động nghèo khổ. Tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố đã dựng nên một hình ảnh chân thực về người phụ nữ nông dân nghèo khổ trong xã hội phong kiến, nhưng vẫn giữ được bản chất tốt đẹp của người lao động, đó là chị Dậu.
Trước hết, tấm lòng người chồng bệnh tật của người phụ nữ được thể hiện một cách chân thành, tình cảm từ lời nói đến hành động. Chị Dậu chăm sóc anh Dậu trong hoàn cảnh: Giữa lúc sưu thuế căng thẳng, nhà nghèo, phải bán chó nuôi con mà vẫn không đủ tiền nuôi con. Còn anh Dậu thì bị hành hạ, đánh đập rồi vứt về nhà như cái xác không hồn… Trước hoàn cảnh khó khăn, chị Dậu đã hết sức nhẫn nhịn, không khuất phục trước hoàn cảnh.
Trong cơn nguy khốn, chị tìm mọi cách để cứu chồng: cháo chín, chị Dậu bưng ra giữa nhà, tì vào mâm để múc. Rồi mẹ lấy quạt cho mau nguội. Cô rón rén bưng bát đến bên giường chồng: Thầy ơi cố ngồi uống chút cháo cho đỡ đau bụng. Sau đó, cô bế Tiea và ngồi đó như thể đang chờ xem chồng mình có thưởng thức bữa ăn hay không.
Đó là những cử chỉ ân cần, dịu dàng của một người phụ nữ yêu chồng. Tình yêu ấy như hơi ấm dịu dàng đánh thức cuộc đời anh. Tác giả miêu tả tỉ mỉ, cẩn thận từng cử chỉ, từng dấu hiệu thay đổi của anh Dậu: “Anh Dậu khom vai ngáp dài một tiếng”… Từng cử chỉ, hành động của anh Dậu như có ánh sáng chiếu vào. , ánh mắt lo lắng của chú gà trống theo sát. Ngỡ như phút giây ngắn ngủi trong cả cuộc đời đau khổ của chị Dậu được tràn ngập niềm vui khi anh Dậu bước ra đời đầy đủ. Nhưng dường như chị Dậu sinh ra đã phải chịu khổ và bất hạnh nên dù khao khát giây phút hạnh phúc ngắn ngủi cũng không có được. Cai lệ và những người trong gia đình lao vào như một cơn lốc dữ dội dập tắt ngọn lửa sống đã nhen nhóm trong anh Dậu. Sự cay đắng trong Pietl không biết nó lớn đến mức nào. Nhưng giờ cô sẽ phải xoay xở thế nào để cứu chồng khỏi đòn roi.
Theo dõi nhân vật chị Dậu trong phần hai của văn bản “tức nước vỡ bờ” ta thấy chị Dậu là một người phụ nữ mạnh mẽ đã dũng cảm chống lại cường quyền để bảo vệ chồng.
Ban đầu cô ấy kiên nhẫn chịu đựng. Gà trống tha thiết van xin, giọng run run van nài:Hai người đàn ông đã chúc phúc để nói cho anh ta biết lý do về đứa cháu trai của người ăn xin. Hành vi và địa chỉ của cô ấy thể hiện sự kiên nhẫn. Cô có thái độ như vậy vì cô biết thân phận nhỏ bé của mình, một tiểu nông thấp cổ bé họng, cô biết hoàn cảnh khó khăn khốn khó của gia đình mình (Chị Dậu là kẻ tội đồ thiếu thu nhập của người đời, em thì chết). đang ốm nặng.) Trong hoàn cảnh này, cô chỉ mong họ tha thứ cho anh, đừng đánh đập, hành hạ anh.
Khi tên cai lệ xông vào trói anh Dậu lại, tính mạng của người chồng đang nguy cấp, “xám” Gà trống lao đến giằng lấy tay anh Dậu nhưng vẫn cố van xin một cách đáng thương: “Tôi xin anh! Người nhà tôi chỉ tỉnh lại trong chốc lát, xin hãy tha cho tôi.”. (“Mặt xám” có nghĩa là cô ấy rất tức giận và không hài lòng với sự thiếu lương tâm của Milo. Dù vậy, lời nói của cô ấy vẫn rất khiêm tốn, cô ấy kiên nhẫn hạ mình – chứng tỏ sức chịu đựng của cô ấy. Gánh nặng của cô ấy rất lớn, tất cả là để cứu cô ấy chồng khỏi rắc rối.
Nhưng chị Dậu không phải là người nhu nhược chỉ biết nhẫn nhục cầu nguyện mà còn tiềm tàng sức phản kháng mạnh mẽ. Khi cai lệ uốn éo như một con chó điên, “ai đó đánh vào ngực cô ấy”, và sau đó “tát vào mặt cô ấy và thậm chí nhảy vào con gà trống”… nghĩa là cô ấy cư xử một cách dã man, mọi sự kiên nhẫn đều có giới hạn. Gà trống kiên quyết chống trả. Cuộc phản kháng của chị Dậu cũng có quy trình gồm hai bước. Ban đầu, chị chống chế với lý lẽ: “Chồng ốm, anh đừng hành hạ em”.
Lời nói mạnh mẽ như một lời cảnh báo. Thực ra cô không viện đến pháp luật mà chỉ nói cái lẽ tự nhiên, cái đạo đức tối thiểu của con người. Khi đó, cô thay đổi cách mời đồng môn nhìn mặt đối thủ. Trước thái độ hung dữ đó, chị Dậu hiền lành trở nên mạnh mẽ, để rồi đến khi tên cầm thú vừa trả lời, vừa tát vào mặt chị rồi tiếp tục nhảy bổ vào, chị Dậu bỗng đứng phắt dậy giận dữ: chị Dậu đay nghiến chị. răng “chói chồng đi, tao cho mày xem!”. Cách xưng hô rất phũ phàng của một người phụ nữ bình thường thể hiện một tư thế “đứng trên đầu quân thù” sẵn sàng đè bẹp đối phương. Rồi bà “chộp lấy cổ cây thước đẩy anh ta qua cửa, người nhà ngã xuống hiên nhà”. Con gà trống vẫn tức giận. Đối với bà, nhà tù thực dân không lay chuyển được bà nên khi được vợ can ngăn, bà đáp: “Thà đi tù còn hơn”. Để họ làm tình và phạm tội như vậy, tôi không thể chịu đựng được.”
Tiêu đề “Tức nước vỡ bờ” có thể thu được. Nhan đề thể hiện nội dung của toàn bộ văn bản: Chị Dậu bị áp bức cũng quẫn trí, buộc phải phản ứng lại Cải và gia đình. Nhan đề thể hiện đúng tư tưởng của văn bản: có áp bức thì có đấu tranh. Từ nhan đề của văn bản có thể xác định nhân vật trung tâm của đoạn văn này là chị Dậu.
Ngô Tất Tố cũng rất thành công trong nghệ thuật thể hiện chủ đề. Kết cấu chắc, đậm đặc. Các chi tiết, tình tiết đan xen chặt chẽ, nhấn mạnh chủ đề một cách ấn tượng. Nhân vật gà trống xuất hiện từ đầu đến cuối tác phẩm. Xung đột, bi kịch, hấp dẫn, lôi cuốn. Khắc họa thành công các nhân vật: đủ mọi hạng người, từ dân cày nghèo đến địa chủ, từ quan quyền đến quan lại đều có những nét rất chân thực, sinh động. Ngôn ngữ từ miêu tả đến kể chuyện rồi đến ngôn ngữ nhân vật đều trôi chảy, phong phú.
“Tức nước vỡ bờ” giàu giá trị hiện thực. Tố cáo, lên án chế độ sưu thuế man rợ của thực dân Pháp làm bần cùng hóa nhân dân. “Đèn tắt” là bức tranh xã hội hiện thực, là bản án đanh thép lên án chế độ thực dân nửa phong kiến.
Đoạn văn cũng mang tính nhân văn sâu sắc. Tác giả nhắc đến tình vợ chồng, tình mẹ con, tình làng nghĩa xóm giữa những người nghèo khổ, số phận của những người phụ nữ, những em bé và những người cùng số phận với biết bao ngậm ngùi, đau đớn. Qua đoạn văn, nhà văn đã xây dựng nhân vật chị Dậu, một hình tượng đẹp và hiện thực của người phụ nữ làng quê Việt Nam. Người tuổi Dậu có nhiều đức tính tốt: cần cù, siêng năng, giàu lòng yêu thương, kiên nhẫn và dũng cảm chống kẻ mạnh, áp bức. Chị Dậu là hiện thân của người phụ nữ, người mẹ vừa sắc sảo, nhân hậu, vừa trong sạch.
Tóm lại, như Vũ Trọng Phụng đã nhận xét: “Tắt đèn” là một tiểu thuyết mang tính chất chính luận xã hội phục vụ hoàn toàn cho nhà nước, một tác phẩm có thể gọi là một kiệt tác.