
Khuynh hướng sử thi trong thơ Tố Hữu
Khái niệm thiên về sử thi.
Nhà văn sáng tác, miêu tả và cảm nhận thế giới con người từ điểm nhìn của cộng đồng, thay mặt cộng đồng ca ngợi, ngưỡng mộ những anh hùng có công hiển hách. Đây là văn học viết về những sự kiện lịch sử, về số phận của cả một dân tộc, về chủ nghĩa anh hùng. Nhân vật trung tâm của tác phẩm nghệ thuật phải là những con người gắn liền với vận mệnh đất nước, kết tinh những phẩm chất cao quý của cộng đồng – trên hết, họ là đại diện cho giai cấp, dân tộc và thời đại. , và không phải cho cá nhân tôi.
Đó là khuynh hướng chi phối mạnh mẽ sáng tác của các nhà văn, nhà thơ trong thời kỳ kháng chiến, đặc biệt là kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Một số nền tảng về bối cảnh lịch sử xã hội.
Khuynh hướng sử thi ra đời và phát triển trong không khí cao trào cách mạng và chiến tranh chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ diễn ra ác liệt. Nền văn học Việt Nam giai đoạn này là nền văn học yêu nước. Vấn đề đặt ra trong văn học là vấn đề của cả cộng đồng dân tộc, đứng trước những thách thức gay gắt: Đất nước còn hay không; Độc lập, tự do hay nô lệ, ngục tù. Khuynh hướng sử thi giúp các nhà văn đấu tranh lúc bấy giờ có thể động viên, khích lệ tinh thần, mở ra một tương lai mới giữa một hiện thực đầy nghịch cảnh, mất mát và đau thương
Khuynh hướng sử thi trong thơ Tố Hữu.
Khuynh hướng sử thi đã trở thành một trong những phong cách nghệ thuật tiêu biểu cho hồn thơ Tố Hữu. Khuynh hướng sử thi xuất hiện trong tập thơ đầu tiên của Tứ Thất – Tố Hữu với các tác phẩm Người mẹ Hậu Giang, Tuổi trẻ vùng lên, Quyết tử, nhưng nổi bật trong thơ Tố Hữu nhất là ở thời điểm đó. Tiết sau, từ hết tập Việt Bắc.
1. Những biểu hiện của khuynh hướng sử thi trong thơ Tố Hữu.
Một. Đề tài, chủ đề và cảm hứng chủ đạo của tác phẩm.
Thơ Tố Hữu thường đề cập đến những vấn đề chính của cộng đồng, xã hội và đất nước, có ý nghĩa lịch sử và của cả dân tộc.
Cảm hứng chủ đạo thường là cảm hứng ngợi ca. Thơ Tố Hữu lấy vận mệnh đất nước, sức mạnh của dân tộc, của nhân dân, của Đảng làm đối tượng tư tưởng trước mắt. Hồn thơ Tố Hoắc bắt nguồn từ những sự kiện có ý nghĩa lịch sử, ý nghĩa chính trị, từ cuộc kháng chiến trường kì gian khổ của nhân dân ta. Vấn đề trong thơ Tố Hoắc là vấn đề giữa ta với hắn, giữa ta với nhau. giữa ta với họ, giữa Bắc và Nam, giữa ta với ta, không phải chuyện riêng với người như chuyện đời tư.
Ví dụ:
– Cách nói: Vì cuộc sống tự do
+ Việt Bắc.
+ Chào chiến sĩ Điện Biên.
+ Phía Tây Bắc.
+ Người phụ nữ Việt Nam.
+ Việt Nam máu và hoa.
+ Dậy đi bạn trẻ.
+ Quyết tâm hy sinh.
– Một số đoạn
Tôi lớn lên trong khói lửa
Họ không thể hy vọng nữa,
Chặn đứng bước chân của một dân tộc anh hùng…
(tôi đi đây)
Xin chào 61, đỉnh cao nhất
Em đứng đây nhìn bốn phương
Nhìn về quá khứ, hướng tới tương lai
Một góc nhìn về phía bắc, một góc nhìn về phía nam, một góc nhìn ra toàn thế giới
(Bài Ca Xuân 1961)
Tôi đã sẵn sàng để xé trái tim của tôi ra
Vì tổ quốc và vì mọi người
Lá cờ này là máu, là da
Con người quý giá của tôi
(Việt Nam máu và hoa)
b. Hình tượng nghệ thuật:
Các nhân vật nghệ thuật trong thơ Tố Hư thường là những con người bình dị, thuộc nhiều tầng lớp, lứa tuổi, dân tộc nhưng đều mang phẩm chất anh hùng, thể hiện sự lớn mạnh, tập hợp sức mạnh. , ý chí chung của cả cộng đồng, tiêu biểu cho tinh hoa, dũng khí, lý tưởng, lợi ích và khát vọng của dân tộc.
Cách khám phá con người: con người được bộc lộ trong bổn phận, trách nhiệm, nghĩa vụ công dân, trong lẽ sống và trong tình cảm cao cả.
Cái tôi trữ tình trong thơ Tố Hoắc là cái tôi chiến sĩ, cái tôi công dân, cái tôi nhân danh dân tộc, nhân danh giai cấp cách mạng.
Ví dụ:
– Gác lại những tâm sự cá nhân, hoàn cảnh cá nhân để tập trung vào nhiệm vụ chiến đấu. Hãy tập trung vào một mục tiêu cao cả, một khát vọng chân chính. Chuyển tình cảm của cá nhân mình đến trái tim của cả dân tộc.
Đau buồn trắng, tôi sẽ không khóc:
Về người em gái mất cha mất mẹ
Nước mắt rơi trên mặt quân thù
Tôi phải bắn vào đầu kẻ thù của nước Mỹ
(Việt Nam máu và hoa)
Chuyện cô du kích làng Lai Vu
Rắn quấn quanh chân vẫn bắn vào kẻ thù
“Mỹ phá hàng trăm ngôi nhà, lo mình phá trước”
Con rắn, tôi không thể chịu đựng được một mình!
(tin tôi đi)
Oh trái tim trái tim lớn của tôi
Vẫn còn một giọt máu tươi, vẫn đập
Không phải cho tôi. Đối với những gì là đúng trong cuộc sống
Cho quê hương tôi. Vì Tổ Quốc Nhân Loại
(cô gái Việt Nam)
Cảm hứng chủ đạo khi xây dựng các nhân vật này thường là cảm hứng ngợi ca, khẳng định, tự hào… kết hợp với thủ pháp cường điệu.
Ví dụ:
– Cảm hứng ca tụng, anh hùng bất tử, sống mãi trong lòng nhân dân, đất nước:
“Tôi dũng cảm và anh hùng
Như rừng đước vững chãi, như rừng tràm thơm
Chết rồi, bụng còn chưa tiêu!”
Ôi Chúa ơi! Mặt từ bị cắt bằng một thanh kiếm!
Một dòng máu đỏ bay lên trời
Mẹ, con nghe mẹ nói!
Nước non là quý, ngàn tình
Vẫn còn sớm chiều ở Hậu Giang
(Mẹ cố Giang)
Anonym Trần Phú
Biển xanh sóng, núi xanh cây…
(30 năm ta theo Đảng)
– Nhân vật thường được đặt trong bối cảnh không gian rộng lớn, hoành tráng để tôn lên tầm vóc của nhân vật.
Ví dụ:
– Không khí hào hùng, không khí khẩn trương, phấn khởi và hừng hực khí thế của quần chúng cách mạng.
Ở Hậu Giang, cầm tù và thức tỉnh
Phèn kêu, trống giục đồng
Đường quê đỏ cờ hồng
Giáo, gươm, gieo đất, sắc bén ngang trời
Quyết chiến quét sạch kiếp nô lệ
Đổ máu và xương, phá vỡ xiềng xích!
(Mẹ Hậu Giang)
Nhớ khi giặc đến giặc
Rừng núi ta cùng đánh Tây
Thành lũy sắt dày bắc qua núi
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.
Bốn mặt khổng lồ của sương mù
Đất trời, cả chiến khu ta một lòng.
……
Những nẻo đường Việt Bắc của tôi
Đêm ầm ầm như đất nung
Quân đội đang theo dõi cùng một điều
Ánh sao trên đầu súng em và nón
Công dân đuốc đỏ theo nhóm
Bước chân vỡ đá, ngàn tia lửa bay.
Nghìn đêm sương mù
Đèn pha sáng như mai.
(Bắc Việt Nam)
Tin tức khoảng nửa đêm
chuyển phát nhanh
Ngựa bay lên dốc
Ngọn đuốc cháy sáng
Tiếng chuông báo tin vui
Loa vang ở mọi cửa
Ngôi làng đỏ với đèn đỏ và lửa
….
Kháng chiến ba ngàn ngày
Không có đêm nào tốt hơn đêm nay
Đêm lịch sử, Điện Biên sáng ngời
Ở quê như huân chương trên ngực
Nhân dân ta, nhân dân anh hùng!
(Chào chiến sĩ Điện Biên)
c. Ngôn ngữ làm việc
Ngôn ngữ thường trang trọng, giàu hình ảnh, có tính hình tượng cao, giàu giá trị biểu cảm, giọng điệu thường mang âm hưởng hào hùng, khoáng đạt của giọng kể, có tác dụng lay động, khích lệ mạnh mẽ tình cảm, cảm xúc của người đọc.
Ví dụ:
– Cách xưng hô “anh – tôi” trong Việt Bắc hay “anh – em” trong Gió là một sáng tạo, một sự vận dụng khuynh hướng sử thi của Tố Hữu bằng cách đưa vào một nội hàm mới, giàu ý nghĩa. giai cấp, dân tộc trong một cặp từ quen thuộc, khác với cách xưng hô đời tư trong ca dao hay thơ tình.
Em về rồi, anh có nhớ em không?
Mười lăm năm ấy mặn nồng
Tôi đã trở lại, nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ người
….
Em đi anh có nhớ ngày nào không?
Suối mưa lũ, mây cùng năm tháng
Anh về rồi, em có nhớ chiến khu không?
Miếng cơm chấm muối, lời lẽ nặng lời?
Em về, núi nhớ ai?
Đầy mai rụng, mai già.
(Bắc Việt Nam)
– Đây là cái tôi trữ tình chuyển thành cái tôi quần chúng để thể hiện tình cảm chân thành, lòng biết ơn sâu sắc của cán bộ cách mạng và của cả dân tộc đối với Việt Bắc.
– Một trăm năm tù “Trăm năm mong chờ hoài – Hôm nay vui quá hóa là mơ” Đẹp “Trăm năm mắt ướt cười…” Không phải chuyện trăm năm của đời người mà là “Trăm năm mất đất mất nhà” nội dung lịch sử dân tộc.
– Giai điệu trong bài “Idem” dồn dập như bước chân của người chiến thắng mọi thời đại
Đi thôi, lên đường thôi
Cứng như thép, bền như đồng
Cả hai chúng ta đều có cùng một thông điệp
Cao như núi, dài như sông…
(tôi đi đây)
– Giọng điệu Mừng chiến sĩ Điện Biên sảng khoái, hùng tráng. Các dòng thơ tự do, không đều được tác giả sử dụng linh hoạt để chuyển tải khí thế hừng hực của chiến dịch Điện Biên:
Một người lính anh hùng
đầu đốt sắt
Năm mươi sáu ngày đêm đào núi, ngủ hầm, mưa dầm, lúa cạn
Máu trộn với bùn
gan không dao động
Tai không mòn
Đồng đội thân thiết chôn như giá súng
Đầu được bao phủ bởi một lỗ ngọc trai
Vượt núi dây thép gai
Ôi giông bão…
(Chào chiến sĩ Điện Biên)
– Hơi thơ luân chuyển như thác đổ, chuyển tải một chuyển động ào ạt, nhanh, mạnh, khẩn trương:
Toàn Địa Cầu: Đại Chiến Khu
Bước chân tôi băng qua chiến trường
Càn quét Cao Lạng, mở ải
Những cơn gió lớn thổi từ mọi hướng
(Vinh quang cho Tổ quốc của chúng ta)
– Đối với những ca khúc anh hùng ca của Hữu, chúng có âm điệu cực kỳ linh hoạt: vừa thấm thía, vừa nghiêm trang, vừa hào hùng, ca từ tạo nên sự cộng hưởng chung, không có những khoảng ngắt quãng đáng kể giữa các bài. câu thơ, trong số các thành phần của câu thơ trong một bài thơ:
năm kỷ niệm 68 đang diễn ra nhanh chóng
Như đoàn tàu đầy hoa chiến thắng
Hoa Việt bốn mùa mưa nắng
Một nơi tuyệt vời nơi bom napalm bùng cháy
Lá rừng trơ trụi, hạt gạo thành than
Đất xanh của sự sống trở lại
Và hy vọng màu xanh xanh nhất
(mùa xuân 96)
Chỉ có tạm dừng và tạm dừng sâu:
Bạn trở về từ cõi chết tuyệt vời
Như ngày em ra đi, cờ đỏ vẫy gọi
Bạn đã trở lại, cô gái nổi tiếng
Cả trái đất ôm bạn bằng ruột của nó
Tôi đã sống vì tôi đã chiến thắng
Cả nước bên em, quanh nệm trắng
Hát cho tôi nghe như giọng mẹ tôi
Sông Thu Bồn hát tiếng thuyền
(cô gái Việt Nam)
d. Một số thủ pháp nghệ thuật.
Thủ pháp nghệ thuật mà tác giả thường sử dụng là cường điệu, ví von để làm nổi bật hình tượng những nhân vật tiêu biểu cho những phẩm chất cao quý và ý chí, nguyện vọng của cả cộng đồng.
Ví dụ:
Một bức ảnh rất đẹp của bạn trong nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc
Núi không thể tựa vai với anh
Lá ngụy trang reo trong gió thoảng qua
(ở phía tây Bắc)
Đi nào, lên đường nào,
Cứng như thép, bền như đồng
Nhóm của chúng tôi có cùng một thông điệp
Cao như núi, dài như sông
Hạ chí của tôi rộng lớn như biển Đông trước mặt tôi
(tôi đi đây)
2. Đánh giá chung về khuynh hướng sử thi trong thơ Tố Hữu.
Tư duy trên bình diện sử thi cho phép nhà thơ tập trung vào những vấn đề cách mạng và dân tộc, dân tộc và nhân loại, dân tộc và thời đại… ở đó. Khuynh hướng sử thi đã tạo cho thơ Tố Hữu một giọng điệu mạnh mẽ, vang dội như những bản anh hùng ca, thấm đẫm khí thế nóng bỏng của dân tộc, tràn đầy niềm tin và hy vọng vào thắng lợi tất yếu của Cách mạng, về một tương lai tươi sáng, cổ vũ, động viên, khích lệ tinh thần con người vươn lên. vượt qua những đau thương mất mát hiện tại để lập nên những chiến công phi thường.
Phân tích bài Việt Bắc của Tố Hữu