
Phân tích nghệ thuật quy ước và tượng trưng thông qua các mẩu tin “Chị em Thúy Kiều”.
Nghệ thuật ước lệ và tượng trưng được coi là một đặc điểm thi pháp của văn học trung đại. Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du sử dụng nhiều bút pháp ước lệ. Nhưng nhà thơ vận dụng một cách rất linh hoạt và sáng tạo, tránh sự sáo rỗng, nhàm chán. Không chỉ vậy, bút pháp ước lệ của Nguyễn Du còn góp phần thể hiện tinh tế, sâu sắc tâm trạng nhân vật. Tài năng ấy được thể hiện rõ nét qua việc miêu tả đặc sắc chân dung Thuý Vân, Thuý Kiều trong đoạn văn “Chị em Thúy Kiều”.
Ước lượng là một phương tiện biểu đạt hình tượng ước lệ thường được sử dụng trong văn học cổ. Ví dụ, sử dụng hình ảnh “tuyết” tả mùa đông”lá vàng rơi” để chỉ mùa thu, “giọt ngọc” để chỉ nước mắt, và “thu thủy” để chỉ đôi mắt của cô gái. Để đại diện cho là phương pháp thể hiện cái trừu tượng bằng hình ảnh cụ thể thường lấy cây cỏ, chim muông. Chẳng hạn, hình ảnh cây trúc tượng trưng cho người quân tử, cây thông tượng trưng cho tính cách mạnh mẽ kiên định, tuyết tượng trưng cho tâm hồn trong sáng, v.v. quy ước và ký hiệu giống nhau ở chỗ đều là hình ảnh ẩn dụ và khác nhau ở chỗ ttượng trưng là bức tranh hoàn chỉnh, đánh giá phần lớn nó chỉ là một chi tiết của hình ảnh.
Hình ảnh gần đúng, tượng trưng là sáng tạo nghệ thuật của thẩm mỹ phong kiến, nó có giá trị thẩm mỹ nhất định. Người xưa dùng hình ảnh cây thông (tong) bốn mùa lá xanh tươi, đứng vững trên những sườn núi quanh năm hiểm trở bất chấp mưa bão bão bùng tượng trưng cho một cá tính mạnh mẽ, bản lĩnh kiên cường, không khuất phục trước cường quyền vinh hoa. Hoặc hình ảnh một bông hoa dưới nhiều hình thức: hoa cười, hoa rơi, hoa che, hoa già, v.v. để tả người đẹp, cái đẹp, tình yêu nam nữ v.v. Đây là những sáng tạo nghệ thuật có giá trị thẩm mỹ.
Thủ pháp nghệ thuật xưa không miêu tả hiện thực theo hình thức tả thực mà theo mỹ học của văn học cổ, sử dụng những hình ảnh ước lệ, tượng trưng để mang đến chất thơ trang nhã, bóng bẩy, súc tích và trữ tình. bạn “Kẻ chinh phục nuốttác giả miêu tả cảnh đêm người chinh phụ nhớ chồng, khi có cảnh đêm sương mưa (Cành sương giăng đầy mưa phun) khi có cảnh đêm tuyết rơi (Tuyết bay gió ngoài hiên ) một đêm có trăng, có hoa (trăng tròn vành vạnh, trăng viết trên lá. trăng là lồng hoa, hoa nở từng bông),…
Tác giả không miêu tả một đêm cụ thể thời gian và không gian cụ thể mà miêu tả đêm “tổng hợp” về bao nhiêu đêm kẻ chinh phục đã trải qua. Tuy tác giả không vẽ ra trước mắt ta một đêm cụ thể nhưng cảm giác đọng lại trong những hình ảnh gợi ra cho người đọc là một nỗi nhớ da diết, chân thành và cảm động của kẻ chinh phu. Nhưng bên cạnh đó, những ước lệ, ký hiệu được sử dụng một cách khuôn sáo, công thức khiến câu văn, câu thơ rơi vào tình trạng nặng về hình thức, nghèo nàn về nội dung.
Cùng với những hình ảnh tượng trưng, ước lệ nổi tiếng, Nguyễn Du đã khéo léo lựa chọn những chân dung với nhiều vẻ đẹp khác nhau để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Khi tả chị em Thúy Kiều “Quỷ xương, Ma tuyết” làm cho bề ngoài họ dịu dàng như cây mai, và tâm hồn họ thanh khiết như tuyết. Khi miêu tả Chân dung Thụy VânNguyễn Du đã sử dụng triệt để phương pháp ước lượng:
“Bên ngoài trông rất trang trọng khác biệt,
Vầng trăng tròn trĩnh nhấp nhô theo nét anh.
Nụ cười hoa ngọc, trang nghiêm,
Mây mất màu tóc tuyết nhường màu da”.
Qua nhiều hình ảnh đánh giá “Hình trăng”, “Ông” hay “Hòn ngọc”, “Mây”, “Tuyết” Ta không thể kể hết chi tiết về vẻ đẹp của Thúy Vân, nhưng ta biết rằng nàng rất đẹp. Sắc đẹp “trang trọng, đầy đủ” “nở rộ, trang nghiêm”, “mây mất, tuyết tan” luôn tạo cảm giác yêu thương, độ lượng cho mọi người xung quanh. Vân xuất hiện với chân dung một cô gái đoan trang, tốt bụng.
Khi miêu tả chân dung Thúy KiềuNguyễn Du đã đưa thủ pháp đó lên một tầm cao mới, đạt tới mức sâu sắc và tuyệt vời:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So với tài năng nó vẫn là một phần lớn hơn.
25. Nước thu, sắc xuân,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”
Nguyễn Du vẫn sử dụng những hình ảnh nổi tiếng “sọc mùa thu”, “sắc xuân” cho mắt, lông mày. Nhưng với hình ảnh “hoa ghen”, “hận liễu” Nhà thơ đã cho thấy vẻ đẹp của Thúy Kiều thuộc loại vẻ đẹp khác thường, độc đáo, vượt lên trên sự bình thường. sắc đẹpp “hăng”, “mặn” kết hợp hình tượng ước lệ với tiếng bản ngữ để tạo nên những biểu cảm: Hoa ghen thua liễu, Mây thua, tuyết nhường.
Vẫn lấy bản chất làm chuẩn mực của cái đẹp nhưng ở đây Nguyễn Du đã phá vỡ nguyên tắc đó, đưa vẻ đẹp con người vượt qua mọi giới hạn trở thành chuẩn mực cao nhất. Lần đầu tiên trong văn học, bằng bút pháp ước lệ, thiên tài Nguyễn Du đã tạo ra bước đột phá trong cấu trúc nghệ thuật, xóa bỏ giới hạn của cái đẹp và làm đảo lộn hoàn toàn quan niệm cổ hủ về cái đẹp.
Nghệ thuật ước lệ và tượng trưng là nét đặc sắc của nghệ thuật thơ cổ. Đó là cách diễn đạt ước lệ, khuôn mẫu có sẵn làm cho thơ, văn thêm tao nhã, sâu sắc. Các thi nhân xưa, đặc biệt là Nguyễn Du, đã sáng tạo và đạt được thành công lớn về thủ pháp này trong việc miêu tả chân dung kiều diễm của chị em Thúy Kiều.
Phân tích đoạn văn Chị em Thúy Kiều (Trích Truyện Kiều Nguyễn Du)