
Phân tích cách lập luận của Vũ Khoan trong bài “Hãy sẵn sàng cho thế kỷ mới”.
“Chuẩn bị cho thế kỷ mới” là bài viết của Vũ Khoan, đăng lần đầu trên báo Tia Sáng năm 2001. Tác giả là một trong những gương mặt mới của bộ máy lãnh đạo nước ta trong thời kỳ tái thiết và hội nhập quốc tế.
“Chuẩn bị cho thế kỷ mới” đề cập đến những vấn đề vừa mang tính thời sự, vừa cấp bách và lâu dài. Tác giả viết bài này vào đầu năm 2001, khi đất nước ta và cả thế giới bước vào năm đầu tiên của thế kỷ mới. Vào thời điểm mà thời gian trôi qua có ý nghĩa đặc biệt, người ta thường có nhu cầu nhìn lại, suy ngẫm về chặng đường đã qua và chuẩn bị cho một chặng đường mới. Đối với đất nước ta, bước vào thế kỷ mới cũng là sự tiếp tục con đường tái thiết toàn diện đầy hứa hẹn, nhằm khắc phục tình trạng kém phát triển, nghèo nàn, lạc hậu, tiến tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mặt khác, đây cũng là con đường đầy khó khăn, thách thức, đòi hỏi mọi người, nhất là thế hệ trẻ phải thực sự đổi mới, vươn lên mạnh mẽ đáp ứng yêu cầu của thời đại.
Chủ đề đối thoại của tác giả là “Tuổi trẻ Việt Nam”, những chủ nhân của đất nước ta trong thế kỷ XXI, thế hệ tiếp bước tiền nhân gánh trên vai sứ mệnh lịch sử vô cùng khó khăn là xây dựng nước Việt Nam giàu mạnh. Có thể thấy câu đầu tiên của bài văn đã trình bày được ý chính của luận điểm: “Thanh niên Việt Nam nên nhận ra điểm mạnh và điểm yếu của người Việt Nam để có được những thói quen tốt khi bước vào nền kinh tế mới.”
Tác giả đặt vấn đề và khẳng định: Điều quan trọng nhất là sự chuẩn bị của bản thân người đó trong hành trang mà nước ta phải có và cần có. Bởi vì con người, từ cổ chí kim, “vẫn là động lực của lịch sử”, “vai trò con người càng nổi bật” trong thế kỷ 21, khi nền kinh tế tri thức sẽ phát triển mạnh mẽ.
Anh phải chuẩn bị những thứ cần thiết trong hành trang để mang vào thế kỷ mới khi “Sự phát triển huyền thoại của khoa học và công nghệ…“, khi “Dưới tác động của sự tiến bộ của khoa học và công nghệ, sự hòa trộn và hội nhập giữa các nền kinh tế chắc chắn sẽ sâu sắc hơn nhiều!”. Vấn đề cơ hội và thách thức được Vũ Khoan nêu ra và lý giải một cách ngắn gọn, rõ ràng.
Ngoài ra, tác giả đặt ra ba nhiệm vụ: một là thoát khỏi tình trạng nghèo đói còn sót lại của kinh tế nông nghiệp; hai là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; ba là được tiếp cận ngay với nền kinh tế tri thức. Và Vũ Khoan đã chỉ rõ: “Làm điều đó, tất nhiên, với người Việt Nam với điểm mạnh và điểm yếu của họ.” Có thể nói: ý chí tự tin, tinh thần đổi mới, sẵn sàng hội nhập với thế giới, và tầm nhìn tỉnh táo là ý tưởng bao trùm phần đầu tiên của luận án này.
Trong phần thứ hai, tác giả lần lượt nêu ra, giải thích và bình luận về những điểm mạnh và điểm yếu của người Việt Nam. Sức mạnh của người Việt Nam là “trí tuệ sáng tạo”, bản chất tốt đẹp đó “rất hữu dụng” trong xã hội mới khi “Sáng tạo là yêu cầu chính”. Ở thế mạnh này, nhân dân ta “lỗ hổng về kiến thức cơ bản”, “năng lực thực hành và sáng tạo còn hạn chế”. Nguyên nhân là do “có xu hướng chạy theo các môn học thịnh hành”, “do khó học vẹt”. Nếu không “nhanh chóng lấp đầy những khoảng trống”, khắc phục những điểm yếu đó, thì “sẽ khó phát huy trí tuệ vốn có và sẽ không thể thích ứng với một nền kinh tế mới đầy tri thức cơ bản và biến đổi. không ngừng”.
Một sức mạnh nữa của dân tộc ta là “cần cù sáng tạo”, nhưng trong sức mạnh ấy lại “ẩn chứa những khuyết điểm” của người sản xuất nhỏ như “thiếu đức tính tỉ mỉ”, hành động theo phương châm “chân nhảy đất nhảy” (thiếu nhìn xa trông rộng, hơn nữa luôn bị động), “liệu cơm gắp mắm” (làm cò, dễ dãi); “Tôi chưa có thói quen tuân theo các quy tắc làm việc nghiêm ngặt là cường độ của sự khẩn cấp.” Ngay tính chất “sáng tạo” cũng chỉ “quay” sang “cải tiến”, viết tắt chứ không coi trọng nghiêm ngặt quy trình công nghệ.
Truyền thống đùm bọc, đoàn kết lâu đời của dân tộc ta, tạo nên sức mạnh Việt Nam đánh thắng giặc ngoại xâm, bảo vệ và xây dựng đất nước. Nhưng do ảnh hưởng của nền sản xuất nhỏ, nhân dân ta có nhiều nhược điểm cố hữu như: tính đố kỵ, tư tưởng “trâu buộc phải ghét trâu ăn” (ghét tài mình), tự do độc đoán, thường đố kỵ nhau.
Người Việt Nam còn có nhiều điểm yếu khác như thái độ phân biệt đối xử trong kinh doanh, thói quen ảnh hưởng bao cấp, bài ngoại hay bài ngoại quá mức. Nhiều người có thói quen: “thông minh”, “cắn ngắn”, Họ đã không coi trọng chữ tín. Những khuyết điểm, những thói hư tật xấu đó, theo tác giả “sẽ gây thiệt hại khôn lường trong quá trình kinh doanh và hội nhập”.
Cuối bài, Vũ Khoan đặt ra hai điều kiện khi đất nước ta, dân tộc ta bước vào thế kỷ mới, muốn “sánh vai với các cường quốc năm châu”. “Phải: Một là chất đầy hành lý bằng những ưu điểm, bỏ đi những khuyết điểm. Thứ hai, hãy làm cho những người trẻ – những người chủ thực sự của đất nước – hiểu được điều này, để tập thói quen tốt từ những việc nhỏ nhất.”
Chuẩn bị cho thế kỷ mới Đây là một văn bản đặc sắc và độc đáo. Tác giả đã mạnh dạn chỉ ra những điểm yếu của người Việt Nam khi bước vào thế kỷ mới, đứng trước những vận hội mới và thách thức mới. Giọng sắc sảo, hăng hái, nhiệt tình. Tác giả đứng trên đỉnh cao của thời đại mới, với ý chí sắt đá chia sẻ những ưu khuyết điểm của dân tộc mình với thế hệ trẻ, động viên tuổi trẻ Việt Nam gánh vác sứ mệnh lịch sử.
Đây là bài văn về một chủ đề vừa cấp bách, vừa lâu dài, vừa cho nhà nước, vừa cho mỗi người (trước hết là giới trẻ), vừa là bài xã luận, vừa là văn bản vừa nêu quan điểm đạo đức, vừa là quan điểm cá nhân. và ý kiến của một vị lãnh đạo cấp cao, có tính chất sống còn và mang tính chất tư tưởng, đạo đức và đặc biệt là bài viết chứa đựng triết lý nhân sinh văn học có giá trị vĩnh cửu: “Con người quyết định tất cả”.
Lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, lí lẽ thuyết phục. Với những câu tục ngữ, ca dao, tác giả tạo nên một cách nói dung dị, đậm chất dân gian, gây cho người đọc nhiều liên tưởng thú vị. Tiểu luận Chuẩn bị cho thế kỷ mới Tác phẩm của Vũ Khoan đã giúp chúng ta có cái nhìn rõ ràng về dân tộc mình, về mỗi người chúng ta. Thế kỷ mới là thế kỷ của hy vọng và vinh quang cho đất nước và dân tộc Việt Nam.
Phân tích văn bản Chuẩn bị vào thế kỉ mới của Vũ Khoan