
Phân tích văn bản Tiếng mẹ đẻ – cội nguồn giải phóng những người bị áp bức của Nguyễn An Ninh
Nguyễn An Ninh (1899 – 1943) là một trí thức yêu nước gắn liền với tên tuổi của nửa đầu thế kỷ XX. Anh sinh ra ở quê mẹ (Long An) và lớn lên ở quê cha (TP.HCM). Lớn lên trong một gia đình Nho học có truyền thống tự hào dân tộc, ông theo đuổi con đường khoa bảng để đạt được trình độ học vấn cao. Tiếng mẹ đẻ – cội nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức thuộc hệ thống các bài viết của Nguyễn An Ninh đánh thức tinh thần dân tộc bằng cách tiếp thu tinh hoa văn hóa nước ngoài và biết bảo vệ, giữ gìn, phát triển ngôn ngữ mẹ đẻ. Đây được coi là bài văn lớn của ông dưới bút danh Nguyễn Tĩnh đăng trên báo Tiếng chuông nhỏ (1925).
Bài viết này thuộc thể loại nghị luận chính trị – xã hội, tác giả trực tiếp bày tỏ quan điểm của mình về tiếng mẹ đẻ. Thể loại nghị luận không chỉ đòi hỏi sự chặt chẽ trong lập luận, tính khoa học khi chứng minh, giải thích các vấn đề mà còn đòi hỏi tình cảm sâu sắc khi bình luận về các vấn đề mà tác giả trình bày, trong đó có tình yêu đối với tiếng mẹ đẻ. Sự kết hợp nhuần nhuyễn các yếu tố trên sẽ tạo nên một phong cách nghị luận riêng, từ đó người đọc cảm nhận được sự mượt mà, trau chuốt của ngôn từ, cảm nhận được những ý hay, đẹp qua tính chất suy đoán của những lập luận đó.
Đoạn văn mở đầu bằng lời phê phán thói “thích huyên thuyên năm ba bằng tiếng Tây, thay vì diễn đạt mạch lạc các ý bằng tiếng ta”. Đây là một kiểu học tiếng Pháp thường được gọi là phong cách ẩm thực Pháp, chỉ chuyên “lắp ghép những thứ lặt vặt” để tạo ra một hình thức khiến người khác “tin rằng mình đã được đào tạo phương Tây”. Những sinh viên tiếp biến văn hóa như vậy không nhận ra rằng họ không những không có trình độ kiến thức cần thiết mà còn không thể hiểu đầy đủ và chính xác các nền văn hóa “ngoại lai” khác. Nguyễn An Ninh gọi đó là “thái độ mù quáng đối với văn hóa châu Âu”. Ông phê phán lối học như vậy và chỉ ra sự lai căng mà những “học trò Tây” này cố tình tạo ra: “Phong cách kiến trúc và trang trí lai tạp của những ngôi nhà của người An Nam được mô phỏng theo cái mà người Đông Dương gọi là văn minh Pháp, chứng tỏ rằng người Tây phương Người An Nam không có nền văn minh.” Hệ quả tất yếu là: “Việc từ bỏ văn hóa của tổ tiên và tiếng mẹ đẻ phải khiến tất cả người An Nam lo ngại về chủng tộc”.
Rồi ông phân tích bản chất của tiếng mẹ đẻ và chữ quốc ngữ. Người chỉ ra những ưu điểm thiết thực của việc bảo vệ tiếng mẹ đẻ, việc sử dụng tiếng mẹ đẻ: “Tiếng nói là người bảo vệ quý nhất nền độc lập của dân tộc, là nhân tố quan trọng nhất giúp giải phóng dân tộc”. “Vì vậy, đối với người Anam chúng tôi, từ chối tiếng mẹ đẻ của chúng tôi có nghĩa là từ chối quyền tự do của chúng tôi.” Đó là gì? Bởi vì: “Nếu người An Nam tự hào giữ gìn tiếng nói của mình và làm mọi cách để làm phong phú nó để có thể truyền bá các học thuyết đạo đức và khoa học của châu Âu ở An Nam, thì việc giải thích chỉ là vấn đề thời gian trước khi người dân An Nam được giải phóng. “Cho nên, học Âu không phải là học mấy tiếng đồng hồ mà là tiếp thu khoa học, lý luận vĩ đại, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để tìm ra con đường đi đúng đắn cho dân tộc mình, là lấy lý luận của phương Tây để chống lại phương Tây.
Ông chỉ trích những người chỉ trích tiếng Việt xấu và chỉ ra rằng những lời buộc tội như vậy là vô căn cứ. Bởi vì những người này: “Họ chỉ biết những từ phổ thông của ngôn ngữ và kém về từ tiếng An Nam hơn bất kỳ phụ nữ và nông dân An Nam nào. Ngôn ngữ của Nguyễn Du nghèo hay giàu?” Từ đó, ông đặt ra một câu hỏi khiến những người có lương tri với dân tộc phải suy nghĩ: “Nên trách ngôn ngữ nghèo nàn hay tại sự bất tài của con người?”
Ở đây Người chỉ ra một thái độ vô trách nhiệm, một sự phủ nhận một phía của những người đã chọn làm nô lệ, chấp nhận làm tay sai cho thực dân, bởi họ bôi nhọ đất nước một cách thụ động, đơn giản một chiều sẽ dẫn đến khinh địch. cho đất nước, từ đó dẫn đến tự ti dân tộc. Từ đó, ông chủ trương mọi người phải học để trưởng thành: “Chúng ta không né tránh châu Âu, vai trò dẫn đường tình báo buộc họ phải biết ít nhất một ngôn ngữ châu Âu để hiểu châu Âu. Châu Âu. Nhưng họ không cần phải giữ những kiến thức mà họ thu thập được cho riêng mình. Đồng bào của họ cũng phải chia sẻ. Tuy nhiên, nhu cầu biết một ngôn ngữ châu Âu không có nghĩa là từ bỏ tiếng mẹ đẻ của mình. Ngược lại, ngoại ngữ chúng ta học phải làm phong phú thêm ngôn ngữ của chúng ta.” Thực tế mấy chục năm sau ngày độc lập đã chứng minh khát vọng này của Nguyễn An Ninh. Từ đây, việc bảo vệ tiếng mẹ đẻ và tiếp thu văn hóa ngoại lai không loại trừ hay mâu thuẫn với nhau mà bổ sung cho nhau.
Nghệ thuật lập luận dẫn dắt vấn đề được nêu bật ở đây. Trước hết, phải nói đến khả năng tư duy duy lý theo mô hình tư duy phương Tây, đặc biệt là theo mô hình tư duy khoa học của người Pháp, mà tác giả Nguyễn An Ninh đã tiếp thu từ các trường học Pháp, cũng như có ý nghĩa quan trọng. góp phần nhìn nhận và giải thích vấn đề này của tiếng mẹ đẻ. Tiếp theo, tác giả lần lượt đề cập đến những khía cạnh khác nhau của vấn đề tiếng mẹ đẻ và đặt ra trách nhiệm chung cho toàn xã hội, đặc biệt là những người có học, những người phương Tây, phải phát triển hơn nữa tiếng mẹ đẻ, ngôn ngữ chung của dân tộc. Việc bảo vệ tiếng mẹ đẻ không dừng lại ở mức độ hiểu biết hay sử dụng thường xuyên tiếng mẹ đẻ, mà tiếng mẹ đẻ đó phải được phát triển hơn nữa, bằng cách tiếp nhận những quan niệm mới, bằng cách bổ sung và hoàn thiện vốn từ của ngôn ngữ dân tộc, bằng cách sử dụng các tiếng mẹ đẻ để truyền đạt những học thuyết tiến bộ về “đạo đức và khoa học” nhằm soi đường cho sự đi lên của dân tộc.
Lập luận chặt chẽ này có sức thuyết phục rất cao bởi mục tiêu quan trọng mà tác giả hướng tới là tầng lớp trí thức Tây học, nhằm thức tỉnh họ và đặt họ trước nhiệm vụ lịch sử của dân tộc. Vì vậy, bảo vệ tiếng mẹ đẻ là một hành động yêu nước, yêu nước.