
Phân tích “Nhà nghĩa sĩ Cần Giuộc” Nguyễn Đình Chiểu (từ góc độ thơ ca).
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc Nguyễn Đình Chiểu được viết bằng chữ nôm, gồm 30 câu, tức là 60 câu đối, theo thể Đường luật, có vần và có đối. Toàn bài hào hùng, bi tráng và có sức cổ vũ to lớn. Điểm độc đáo và thú vị của bài văn là sử dụng nhiều ngôn ngữ, chi tiết đời thường, quen thuộc, đời thường để xây dựng một bức tranh hết sức sinh động về một thế hệ nhân dân tiêu biểu chống Pháp thời bấy giờ… Nói cách khác. Bài văn là một thành tựu xuất sắc về nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật, kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trữ tình và chất hiện thực. Ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, giàu chất ngôn ngữ quen thuộc của người dân, đặc biệt là bản sắc địa phương nam bộ.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc Nguyễn Đình Chiểu với ba phương diện nổi bật là quan niệm nghệ thuật, cách nhìn nghệ thuật về con người và giọng điệu nghệ thuật đã có tác dụng to lớn trong việc tạo nên hiệu quả thẩm mĩ và tư tưởng cho tác phẩm trường tồn với thời gian này.
Đầu tiên là quan niệm nghệ thuật về con người. Sinh thời Nguyễn Đình Chiểu, không ai còn xa lạ hay nghi ngờ sức mạnh của nhân dân nói chung, vai trò của nhân dân nói riêng trong cuộc chiến tranh chính nghĩa của dân tộc Việt Nam chống ngoại xâm. Tuy nhiên, trong một thời điểm và hoàn cảnh lịch sử nhất định, hình tượng người nông dân chống giặc ngoại xâm trong quan niệm và cách nhìn mới của Nguyễn Đình Chiểu đã thực sự bộc lộ những giá trị và vẻ đẹp mới. , sáng ngời bản lĩnh, ý chí Việt Nam; thể hiện rõ lẽ vinh nhục, lẽ sống chết và văn hóa ứng xử của người Việt Nam.
Ngay phần mở đầu tác phẩm, Nguyễn Đình Chiểu đã đưa ra một định đề mới có ý nghĩa đúc kết sự thật trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, thể hiện cái nhìn bao quát, tổng kết hiện thực, qua đó bộc lộ quan niệm về nhân cách của ông:
Ồ ồ!
súng bắn đất; tấm lòng của thiên hạ.
Tính cách nhân dân ấy vừa là phẩm chất truyền thống, vừa là lịch sử cụ thể của các nghĩa sĩ Cần Giuộc mà Nguyễn Đình Chiểu thương tiếc với tấm lòng hy sinh này. Nét đặc sắc trong hoàn cảnh chiến đấu của các nghĩa sĩ Cần Giuộc so với các cuộc kháng chiến trước đây trong lịch sử Việt Nam là họ đã tự nguyện đứng lên giết giặc khi triều đình đầu hàng thực dân Pháp. Vì vậy, chỉ có Chúa mới có thể cho họ thấy trái tim của mình. Vì vậy, Nguyễn Đình Chiểu, nhìn thấy những người nông dân đang yên ổn, ủ ê, buồn làm ăn, lo nghèo, đã vinh danh họ bằng sự thật.
Quan niệm mới về con người của Nguyễn Đình Chiểu được thể hiện trong một nhãn quan nghệ thuật rất cụ thể với những điểm nhìn tiêu biểu, chân thực và giàu cảm xúc nhất.
Thứ nhất, con người được quan sát ở hai không gian và thời gian khác nhau với những đặc điểm trái ngược nhau là thời bình và thời chiến. Thời gian yên tĩnh là:
Kinh doanh chim cút; lo lắng về nghèo đói
Tôi không biết cung ngựa, học nhung ở đâu; Họ chỉ biết ruộng trâu, họ ở trong làng
Cái cuốc, cái cày, cái bừa, cái cấy, tay đã quen với công việc; tập khiên, tập binh khí, tập mác, tập cờ, mắt chưa hề ngó tới.
Trong thời bình, thân phận người nông dân bị lu mờ giữa công việc kiếm sống hàng ngày. Nhưng trong thời chiến, khi súng giặc rền vang, lòng người đất trời mới lộ ra. Nghĩa là, với ý thức vô hạn về kẻ thù và lòng căm thù lẽ thường cao độ như kẻ nông dân ghét cỏ, người nông dân đã vùng lên sẵn sàng chiến đấu vì đại nghĩa:
Khi tôi nhìn thấy kẹo cao su trắng, tôi muốn đến và ăn gan; Ngày nhìn ống khói đen thui chỉ muốn ra ngoài cắn cổ
Một con mối khổng lồ, cho mọi người cắt rắn đuổi hươu; hai mặt trời và mặt trăng chiếu sáng, không dùng kẻ treo đầu dê bán chó
Chờ người hỏi bắt ai, lần này tìm cách phá vòng vây; hắn không thèm thoắt ẩn thoắt hiện, chuyến này nhằm vào một bộ hổ báo.
Với những điểm nhìn đối lập tĩnh và động như vậy, hiệu quả thẩm mỹ và tư tưởng đạt được không chỉ là lòng thương người nông dân sống cô độc, dấn thân trong xã hội thời bình mà còn là niềm vinh quang của người nông dân đối với những điều tốt đẹp. phẩm chất của người nông dân, lòng yêu nước, sự hy sinh của người nông dân cho sự tồn vong của đất nước khi đất nước gặp nguy hiểm.
Thứ hai, mọi người nhìn nhận bản thân trong mối quan hệ với quá khứ – họ hành động trong hiện tại – họ đấu tranh cho tương lai. Đặc biệt, người nông dân anh hùng sống ở hiện tại nhưng luôn mang trong tiềm thức mình quá khứ của tổ tiên, ông cha. Nổi bật trong đó là lòng trung thành với tổ tiên, tinh thần trách nhiệm và đạo lý truyền thống tốt đẹp của dân tộc về lòng yêu nước. Từ những triết lý ấy, người nông dân tự chịu trách nhiệm trước lịch sử về hành động tự giác đấu tranh diệt giặc ngoại xâm, bảo vệ quê hương. Họ đấu tranh cho hiện tại không phải chỉ vì sống bất lương, vì từng tấc đất, vì ơn Chúa và của cải cho nước mình; Đời người bát cơm manh áo, còn phải lo cúng tổ tiên… nhưng mai sau không còn bóng quân thù trên đất nước Việt Nam. Vì thế, sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, hồn theo quân, thề suốt đời báo thù.
Thứ ba, con người nhìn mình dưới góc độ sinh tử; danh dự – xấu hổ; và trong mối quan hệ giữa thực tế và tâm linh. Bên trong người nông dân dầm mưa, vật lộn với ruộng đồng để mưu sinh hàng ngày, anh luôn ý thức rõ ràng về lẽ sống – cái chết: Phải sống xứng đáng là một con người chân chính, sẵn sàng hy sinh vì lẽ sống ấy. Quốc gia; Thà chết vinh còn hơn sống nhục, thà chết mà giữ đạo làm người, trung thành với tổ tiên còn hơn sống kiếp nô lệ. Mặt khác, trong ý thức và hành vi, người nông dân luôn phấn đấu vì lẽ chung đời sống tinh thần, sức mạnh tinh thần. Đó là nét đẹp trong văn hóa tín ngưỡng, tâm linh của người Việt. Chính vì niềm tin như vậy mà người nông dân chân chính luôn nhớ về tổ tiên, quyết giữ lấy đất thiêng của cha ông và tin rằng nếu phải chết cho
đại nghĩa thì hồn còn đánh giặc, thác cũng đánh giặc; Linh hồn đi theo quân đội.
Với quan niệm nghệ thuật và nhãn quan nghệ thuật như vậy, giọng văn của Nguyễn Đình Chiểu về Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc cũng là một khía cạnh rất đặc sắc. Âm hưởng chung của không khí đau thương nhưng hào hùng của thời đại ấy kéo dài đến nghĩa sĩ Cần Giuộc, góp phần tạo nên giọng điệu của tác phẩm này. Đồng thời, giọng điệu nghĩa sĩ Cần Giuộc góp phần tô đậm tinh thần đau thương mà hào hùng của dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vào cuối thế kỉ XIX.
Nét cơ bản trong giọng điệu của nghĩa sĩ Cần Giuộc là bi tráng. Tác giả đã diễn một bài thơ bi tráng đến tột cùng, nói về những nạn nhân, những mất mát của người dân làng bên:
Qua sông Cần Giuộc rợp bóng cây mấy dặm, ngó sang chợ Trường Bình già trẻ hai hàng to nhỏ.
Xót xa thay người đàn bà yếu đuối chạy đi tìm chồng thì bóng người tài xế ấy đã thấp thoáng trước ngõ. Những từ như than khóc, than thở, khóc lóc.
Những lời than thở thật đau đớn, thật đau lòng; Những hình ảnh để lại ấn tượng buồn về người mẹ già ngồi khóc, người thiếu phụ trẻ yếu chạy đi tìm chồng có giá trị diễn tả nỗi buồn rất lớn. Nguyễn Đình Chiểu đi đến cùng cực trong niềm bi thương, nhưng không tạo nên nỗi sầu. Bởi vì nền của nó là một lớp phủ. Người nghĩa sĩ nông dân anh dũng đứng trước cảnh nước mất nhà tan không thể chờ triều đình, một khi triều đình bất lực, phản nhân nghĩa nên ông đã tự nguyện đứng lên đánh giặc với lòng yêu nước thấm sâu trong suy nghĩ và hành động. của người Việt từ ngàn đời nay: Bây giờ đợi ai hỏi bắt, lần này thử phá vòng luẩn quẩn; Không phải cố giấu, lần này xin chịu thua hổ báo. Họ chiến đấu dựa trên tinh thần đó, tư tưởng đó nên mạnh mẽ, dũng cảm, chấp nhận hy sinh vì nghĩa lớn:
Những quả mơ bốc lửa được đánh bằng rơm; thiêu rụi thêm một nhà tôn; gươm dùng lưỡi phay cũng chặt đầu hai quan
Tốn quản khua trống khua chiêng động viên, đạp rào xem giặc cũng như không; ai sợ thằng tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào như không…
Như vậy, sự hy sinh, mất mát không những không làm đau lòng người, mà tạo ra những giá trị mới về chất có cơ sở hiện thực hơn và ngày càng vững mạnh: Sống để đánh giặc, thác mà đánh giặc; Linh hồn theo để giúp quân đội, và thề sẽ trả thù mãi mãi.
Trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, bên cạnh giọng điệu bi thương còn có giọng điệu căm giận, phê phán. Giọng điệu đó được thể hiện ở hai cấp độ.
Đầu tiên, đối với triều đình, nhà thơ phê phán thói vô trách nhiệm, sẵn sàng để dân đen phải chịu vạ lây này (Chạy giặc): Tiếng gió và tiếng hạc bay hơn mười tháng, trông như nắng hạn mà mưa. Thứ hai, đối với kẻ thù, nhà thơ bày tỏ lòng căm thù và quyết không chịu chung số phận: Mùi tinh trùng chiên vá đã ba năm, anh ghét thói hư như nhà nông ghét cỏ/ Thấy cao su trắng là muốn ăn gan; ngày ấy nhìn ống khói đen sì, muốn chui ra cắn cổ…/ Cớ sao sống dưới quân ác, ném nhang, đầu độc bàn, lại buồn; Đời lính làm sao, chung rượu, cắn bánh, nghe hổ hơn.
Sự mới lạ, độc đáo trong giọng văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc tạo nên sự cộng hưởng đặc biệt làm nên bài văn tế chưa từng có. Nghĩa là, nếu văn tế thông thường được dùng như một tiếng khóc tiễn biệt, gây trong lòng người đọc âm hưởng xót xa, tiếc thương trước sự mất mát, sự ra đi của những con người lớn lao vô cùng, không thể bù đắp được như Vân Cẩn, tuyết tiêu, hoa nhạt. , vầng trăng khuyết…, bài văn tế Nguyễn Đình Chiểu này tuy dẫn đến sự mất mát, đau thương tột cùng nhưng nó không phải là điểm kết trong nhãn quan nghệ thuật của tác giả và là dư âm của tác phẩm trong lòng người đọc, mà đó là tấm lòng nhân ái rút ra sức mạnh và niềm tin bởi cái giá quá đắt của sự hy sinh, vì ý nghĩa của cuộc đời.Sự cao cả và vinh quang của nỗi đau ấy qua đi là đến một cung bậc khác của tinh thần, sự tự hào và kiêu hãnh. Vì là sự cống hiến cho Tổ quốc, nỗi đau lớn lên thành sức mạnh, khát vọng sống và chiến đấu vì nghĩa lớn.
Tóm lại, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là tác phẩm cảm động nhất về những người nghĩa sĩ nông dân Nam Bộ. Đó là những con người quanh năm nghèo khó, chưa từng cầm vũ khí, nhưng khi quân Pháp kéo đến, họ đã lao vào chiến đấu quên mình, thể hiện tinh thần dũng cảm, bất khuất, tiêu biểu cho ý chí độc lập, tự do của dân tộc. Bài văn tế không chỉ là một bản anh hùng ca độc đáo mà còn là lời tự thú của những con người không chịu làm nô lệ, thề đánh giặc ngoại xâm đến cùng, là lời trách móc sâu sắc đối với thái độ đầu đường.
Phân tích Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc Nguyễn Đình Chiểu