Quan điểm về văn chương nghệ thuật của Nguyễn Trãi

Quan-diem-ve-van-chuong-nghe-thuat-cua-nguyen-trai

Quan điểm về văn học nghệ thuật của Nguyễn Trãi

1. Anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi.

Một số nhà nghiên cứu cho rằng, phải nhìn con người Nguyễn Trãi từ hai phía mới thấy rõ: Thứ nhất, từ thời Lý Trần, một thời đại hào hùng trong việc xây dựng và bảo vệ nền độc lập, tự chủ của chế độ phong kiến, đất nước ta. Thời kỳ này có nhiều chiến công hiển hách, lòng yêu nước thương dân cao cả, nhất là thời nhà Trần với hào khí Đông A hùng mạnh, với cánh tay vạm vỡ “đả hổ diệt vong”. Nguyễn Trãi đã học được bài học về sức mạnh toàn dân, về chủ nghĩa yêu nước cao cả. Điều trực tiếp nhất là học qua ông nội là Trần Nguyên Đán, một trí thức uyên thâm.

Rút kinh nghiệm lịch sử và trí tuệ của mình, Nguyễn Trãi đã có những bước tiến vượt bậc, khác xa thời Lý Trần về quan niệm thân dân, thế nước và sức mạnh của nhân dân lao động; Ngoài ra, từ thời Nguyễn Trãi đã bị quân xâm lược cuối Trần, đầu Lê, Minh xâm lược. Có những người lính và người chết ở khắp mọi nơi. Hai mươi năm giặc Minh đặt vó ngựa trên đất nước ta là hai mươi năm đen tối “trời không dung, đất không tha”. Thay vào đó là đau đớn! Thật là một cảnh ngộ đáng xấu hổ của nhân dân! Trái đất chìm trong chiến tranh. Nguyễn Trãi đã nhiều đêm mất ngủ, nhiều ngày quên ăn để tìm đường cứu dân, cứu nước. Hình ảnh con người đau khổ, con nước “ngày đêm lăn lộn” của Nguyễn Trãi thật đẹp và cao cả. Tất cả những điều trên đã hun đúc và phát triển tấm lòng vì dân, vì nước của Nguyễn Trãi đến đỉnh cao nhất, để cả cuộc đời Nguyễn Trãi dù gian khổ, hiểm nguy đến đâu cũng kiên trung không lay chuyển với lý tưởng cao cả, tôn nghiêm này.

2. Quan điểm của Nguyễn Trãi về văn học nghệ thuật.

Một. Văn học gắn liền với cuộc sống và nhằm mục đích phục vụ nhân dân:

Với tư cách là một nhà văn, nhà thơ, Nguyễn Trãi đã đem văn học phục vụ cuộc sống, chỉ có từ cuộc đấu tranh giành độc lập, hạnh phúc của nhân dân thì văn học nghệ thuật mới phát huy được tác dụng mạnh mẽ. Tác phẩm văn học của Nguyễn Trãi luôn gần gũi với thiên nhiên, cuộc sống đất nước và con người. Với Nguyễn Trãi, văn chương phải là tiếng nói tinh thần của nhân dân, phải thể hiện trọn vẹn những tình cảm sâu nặng của nhân dân: “Say ba chén trà đạo/Tỏ lòng buồn bằng bốn câu” (Thuật Cảm 13) – Quốc Âm thi tập Luyện tập).

Hiện thực phong phú của cuộc sống là cơ sở của tác phẩm văn học. Vì vậy, theo Nguyễn Trãi, nếu văn chương xuất phát từ đời sống thì người ta có thể làm thơ, viết văn mọi lúc mọi nơi: “Qua tìm cảnh, chép câu tìm cảnh; Một ngày nhàn rỗi nên một ngày đàng” (Từ bi 5 – Quốc âm thi tập) hay như: “Vô thi vô thanh” (lúc nhàn nhã thì không làm gì ngoài ngâm nga). Mặt khác, Nguyễn Trãi cũng đòi hỏi người nghệ sĩ phải nhạy cảm Nhà văn, nhà thơ phải để cho trái tim mình rung động như một sợi dây đàn, họ luôn có một sự nhạy cảm nhạy cảm với ngoại cảnh:

“Một điểm đánh dấu để kiểm tra tạm thời các vật liệu phong phú
Hãy nhấn chìm nó vào những thùy ác của thế giới.”

(Đề – Ức Trai thi tập)

Nguyễn Trãi muốn văn học gắn bó mật thiết với đời sống của quần chúng nhân dân. Tác phẩm của Nguyễn Trãi được hình thành trên mối quan hệ giữa văn và đời. Ông sống cùng nhân dân, cùng họ đánh đuổi giặc dã. Bao nhiêu máu và nước mắt của nhân dân đã đổ, bao nhiêu vết cứa vào lòng Nguyễn Trãi. Từ đó, ông mang tinh thần nhân văn cao cả vào các tác phẩm văn học của mình. Văn chương của Nguyễn Trãi phục vụ nhân dân có nghĩa là văn chương được sử dụng như một thứ vũ khí thần kỳ để đánh bại quân xâm lược gian ác, giải phóng con người, đem lại hạnh phúc cho con người.

b. “Văn học là thứ vũ khí cao cả và mạnh mẽ… để lên án và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, đồng thời làm cho tâm hồn con người trong sáng và phong phú hơn”.

Qua thơ văn, Nguyễn Trãi đã thể hiện mình là một chí sĩ kiên cường, tích cực đấu tranh vì độc lập, hạnh phúc của nhân dân, đất nước. Ông đã chứng minh rằng văn học là một vũ khí mạnh mẽ. Bằng ngòi bút và lập luận hùng hồn, Nguyễn Trãi đã uy hiếp tinh thần quân xâm lược, góp phần giải phóng đất nước, giành lại độc lập, đem lại hòa bình, tự do cho nhân dân ta.

Suốt cuộc đời, tư tưởng yêu nước, thương dân của Nguyễn Trãi luôn chi phối mọi hành động, suy nghĩ cũng như các tác phẩm văn học của ông. Văn học trong chiến tranh khác với văn học trong thời bình, nó có sức mạnh trừ gian diệt ác, giải phóng con người. Chỉ cần đọc những bức thư khắc rõ ràng mà Nguyễn Trãi gửi cho tướng giặc mà sau này người ta gọi là Quan Trung tư lệnh. Đó là một bài bình luận chính trị sắc bén, ngắn gọn và có sức mạnh của một ngàn đạo quân.

Giọng điệu của Quan Trung lúc uyển chuyển, lúc cương quyết, khiến tướng địch vừa sửng sốt vừa kinh ngạc: “Nếu ngươi biết điều binh vào thành mà quy thuận ta, ta sẽ coi như anh em một nhà… ngươi. Tối ta gặp nhau, hối hận cũng không kịp. Ngươi hãy suy nghĩ đi” (Ví dụ thành phố Bắc Giang). Có thể thấy, Nguyễn Trãi coi văn chương là vũ khí hữu hiệu nhất để đánh đuổi kẻ thù và mang lại hạnh phúc cho con người chính là “nhân học văn học”.

Nguyễn Trãi cũng coi văn chương là một hoạt động tinh thần có tác dụng thanh lọc, cải tạo con người, hướng tới nhân loại:

“Văn chương lấy câu thơ thánh hiền”
Sự nghiệp phải được bảo vệ trung thành
Diệt độc, diệt tham, diệt bạo
Có người, có trí tuệ, có anh hùng.”

(Bảo Vệ Cảnh Vệ 5 – Luyện Thi Tốt Quốc Gia)

Bởi vậy, đối với Nguyễn Trãi, văn chương là “vũ khí cao cả và mạnh mẽ mà ta có được, để lên án và thay đổi cái thế gian giả dối, tàn ác, làm cho lòng người ngày càng trong sáng và làm cho lòng người ngày càng trong sáng” (Thạch Lam).

c. Văn chương phải giản dị, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân.

Với vốn sống và vốn tri thức phong phú, sâu rộng, Nguyễn Trãi đã kết hợp nhuần nhuyễn văn học dân gian với văn học viết, không chỉ bằng ngôn ngữ đời thường mà ông đã nâng lên thành một thứ ngôn ngữ văn học có chất lượng cao nhất, có giá trị nghệ thuật cao mà còn mang đậm tính nhân văn. phần. : tôn trọng công việc, tôn trọng phong tục tập quán, cách đối nhân xử thế của ông bà.
Nguyễn Trãi đã đưa những biểu hiện đời thường của con người vào thơ ca và vận dụng khả năng tả cảnh, tả người, tả vật:

“Làm thợ, nên thầy nên học
Đủ ăn, đủ mặc để đi làm.”

(Coi chừng cảnh giới 46)

“Cái que thay ruột con ốc
Khuỷu tay tạo thành chi trái.”

(Trần Tình 8)

Điều này đòi hỏi tài năng của người nghệ sĩ, phải khéo léo nhưng cũng phải thật tinh tế để tác phẩm của mình có sức sống, có hơi thở của con người. Ngoài ra, Nguyễn Trãi còn sử dụng ngôn ngữ dân gian dựa trên sự gọt giũa, cách điệu, sử dụng những hình ảnh, cấu tứ cô đọng trong ngôn ngữ dân gian để thể hiện tình cảm nhân dân, ý tứ tài tình:

Từ câu tục ngữ “Con sâu làm rầu nồi canh”. Nguyễn Trãi viết:

“Chớ ngăn con nhỏ, lo lớn
Có sâu thì bỏ canh”.

(Giám Vệ 21 – Quốc Âm Luyện Thi)

Từ câu tục ngữ:

“Vũng sâu cũng có máy dò
Lòng người hiểm độc, ai lường được?”

Nguyễn Trãi viết:

“Vòi của bể sâu và cạn dễ dàng thay thế
Người trí biết lòng dài ngắn của con người.

(Ngữ văn 6 – Quốc âm thi tập)

Dù không nói ra nhưng tôi có thể cảm nhận được niềm tự hào của Nguyễn Trãi về những giá trị bổ ích của văn hóa dân gian, đặc biệt là khả năng sử dụng ngôn ngữ của cha ông mình để diễn đạt những tâm tư, tình cảm. Nguyễn Trãi đã học và sử dụng ngôn ngữ để tăng thêm sự sinh động, gần gũi cho tác phẩm của mình, đồng thời Nguyễn Trãi cũng giữ gìn và phát huy vẻ đẹp của ngôn ngữ mà nhân dân đã mài giũa. Được ghi lại và chọn lọc từ xa xưa.

3. Nhận xét:

Với Nguyễn Trãi, đó là “hình phạt”, là “công tâm”. Nguyễn Trãi đã chiến đấu cả đời cho đến hơi thở cuối cùng để thực hiện hoài bão giải phóng dân tộc, đem lại hạnh phúc cho muôn dân. Nguyễn Trãi có tâm nguyện “Người khắp nơi giàu sang tìm đạo”. Trong đó là tấm lòng yêu nước, thương dân của “biển cả bao la” thật hiếm có và đáng được chúng ta trân trọng, quý trọng.

Tình yêu nước thương dân của Nguyễn Trãi luôn gắn liền với những hành động cụ thể. Mọi tư tưởng chính trị luôn ngự trị một cách đúng đắn, sáng suốt trong tư tưởng và chủ trương của Nguyễn Trãi. Và chưa bao giờ tư tưởng chính trị lại có vai trò chỉ đạo chặt chẽ, nhất quán như trong thơ văn Nguyễn Trãi.

Chủ đề liên quan:

Tham Khảo Thêm:  Đóng vai nhân vật Sơn Tinh để kể lại câu chuyện “Sơn Tinh, Thủy Tinh”.

Related Posts

Các câu thả thính Quốc tế Thiếu nhi chinh phục crush

Ngày Quốc tế Thiếu nhi cũng là dịp đặc biệt để các chàng trai, cô gái thể hiện bản thân, thể hiện “địa vị” của nhau. Nếu…

Gợi ý quà Quốc tế Thiếu nhi ngày 1/6 đầy ý nghĩa cho bé

Quốc tế thiếu nhi sắp đến nhưng bạn chưa biết chọn món quà gì cho các thành viên nhí của mình. Vậy hãy tham khảo ngay những…

Cách làm trà mãng cầu xiêm giải nhiệt mùa hè cực dễ

Mãng cầu xiêm không chỉ là một loại trái cây ngon mà còn rất hợp với trà. Vị chua ngọt hòa quyện với hương thơm của trà…

“Bố già” Al Pacino sốc, không tin có con ở tuổi 83

Trang Six ngày 1/6 đăng tải thông tin Al Pacino bị sốc và nghi ngờ em bé trong bụng Noor Alfallah không phải của mình. Một nguồn…

Lý do Phương Linh “nghỉ chơi” Hà Anh Tuấn

Hà Anh Tuấn – Phương Linh là cặp đôi ăn ý và được yêu thích Vì rất hợp với màn song ca nên công chúng đã nhiệt…

Bật mí nguồn gốc, ý nghĩa của ngày Valentine đen

Ngày lễ tình nhân không chỉ có Valentine đỏ và Valentine trắng, còn có Valentine Đen. Nếu hai ngày Valentine kia là dành cho các cặp đôi…

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *