
Sức sống mãnh liệt của nhân vật A Phủ trong truyện ngắn Sợi dây của Tô Hoài
Sợi dây là tác phẩm hay nhất, được trích ra từ cuốn sổ Chuyện Tây Bắcc của nhà văn Tô Hoài. Từ những điều mắt thấy, tai nghe và sự xúc động trong lòng, nhà văn đã ghi lại hiện thực cuộc sống khổ cực, tủi nhục của người dân miền núi dưới ách độc ác, tàn bạo của bọn thực dân phong kiến miền núi. Bên cạnh nhân vật tôi, ký tự A quy tắc điển hình của những con người bị xiềng xích, áp bức, bị tước đoạt quyền sống, quyền làm người chính đáng… Trước ánh sáng của cách mạng, A Phủ đã vùng dậy và cùng đồng bào đứng lên đấu tranh đòi quyền sống.
A Phủ xuất hiện bất ngờ, mạnh mẽ và kiêu hãnh khi đấm A Sử.
Sức sống mãnh liệt của nhân vật A Phủ được khẳng định ngay từ những phút đầu, khi anh ta mới xuất hiện. Cũng như tôi, A Phủ được tác giả giới thiệu với sự xuất hiện bất ngờ, thu hút sự chú ý của người đọc. Trong cuộc đụng độ giữa đám trai làng bên và nhóm của A Sử, A Phủ bất ngờ xuất hiện ngay sau câu nói: “Đêm qua lũ phá tiệc ta. A Phủ ở đâu? Phù đánh chết đi!”. Lập tức, “thằng to con chạy ra ném con quay cực lớn vào mặt A Sử. Con quay bằng gỗ xoè ra giữa mặt “con nhà thống lí Pá Tra. A Sử” vừa kịp giơ tay lên” thì A Phủ “nhảy ra, giật lấy sợi dây chuyền, kéo đầu, xé vai áo, đánh cho tơi tả”.
Hành động của A Phủ đến liên tiếp, quá nhanh, quá mạnh khiến A Sử không thể chống cự. Ở đây Tô Hoài đã sử dụng một loạt động từ hành động với nhịp điệu nhanh, mạnh, gấp gáp, dứt khoát để diễn tả những đòn quật cường, áp đảo của A Phủ. Những đòn đánh ấy đã thể hiện sức mạnh của người thanh niên này và tạo nên một hình ảnh rất dũng cảm, hào hoa ở A Phủ khi anh không sợ hãi khi đối mặt với con trai nhà quan – một loại “thần thánh” trong vùng. vùng núi cao Tây Bắc.
Nếu như sự xuất hiện của Mị thu hút sự chú ý của người đọc ở một hình ảnh tương phản với cảnh sinh hoạt trong nhà Pá Tra thì sự xuất hiện của A Phủ lại khiến người đọc chú ý đến hành động mạnh mẽ, dám đương đầu và đánh bại Mị. ông yêu con trai mình, không một giây do dự, suy nghĩ. Sự xuất hiện của nhân vật này cũng khiến người đọc tò mò muốn biết A Phủ là ai mà táo tợn như vậy? Sau khi đánh A Sử, liệu A Phủ có bị trúng cú đấm của thống lí Pá Tra? Số phận của con người này sẽ ra sao?… Chắc chắn người viết sẽ có câu trả lời ở những phần tiếp theo của truyện. Một lần nữa ta thấy được sự khéo léo, tài tình của Tô Hoài trong cách dẫn truyện, giới thiệu nhân vật.
Phú là một đứa trẻ mồ côi, nhà nghèo nhưng khỏe mạnh và có sức lao động đáng quý.
Theo lời kể của người viết, A Phủ có xuất thân bất hạnh, khốn khổ. Còn Phú mồ côi cha mẹ từ nhỏ. Còn cha mẹ và anh chị em của Phú đều bị giết “sởi tấn công”. Bản thân A Phủ bị một người đói ở làng Hang-bla ép “đem đi bán đổi lấy gạo Thái”. Không gia đình, không ruộng đất, không bạc, chỉ có “chiếc vòng trên cổ”, A Phủ chấp nhận cuộc sống nghèo khổ, làm thuê để kiếm miếng ăn.
Tuy nhiên, chính cuộc sống vất vả, cơ cực ấy đã hun đúc nên sức sống mãnh liệt của nhân vật A Phủ. Ở A Phủ là một nhân vật dũng cảm, có năng lực làm việc đáng quý. Và Phú không chỉ biết làm những công việc thường ngày như “ném cày”, “cày cuốc” mà còn “cày giỏi”. Một mình cũng có thể làm được những công việc nặng nhọc, khó khăn, nguy hiểm. nguy hiểm: “đốt rừng, cày ruộng, cuốc đất, săn bò tót, bắt hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm lang thang một mình trên đồi, ngoài rừng”.
Sức khỏe của Phú ông là niềm mơ ước của nhiều gia đình và các cô gái: “Ai lấy được A Phủ thì tốt như trâu tốt trong nhà, không giàu lắm đâu”. Có thể nói, dù xuất thân bất hạnh nhưng với thể chất cường tráng, tâm hồn trong sáng, đầu óc giản dị và đặc biệt là khả năng lao động tuyệt vời, A Phủ cũng xứng đáng có một cuộc sống bình thường, làm thuê cho những người dân nghèo khổ.
Còn Phu là nạn nhân của cường quyền tàn bạo và những hủ tục phi lý, độc ác của vùng cao nguyên Tây Bắc.
Tuy nhiên, cũng như tôi, A Phủ là nạn nhân của cường quyền tàn bạo và hủ tục ăn sâu của vùng cao Tây Bắc. Trước hết là quyền lực. Chỉ vì đánh con nhà thống lý mà A Phủ đã phải hứng chịu những trận đòn roi dã man của bọn địa chủ, cường hào vùng núi Pá Tra. Lão trói A Phủ, bắt quỳ giữa nhà rồi cho đám trai làng đánh đập. Hải quan là với chính phủ. Cảnh “quan khắp Hồng Ngãi” từ “quan lang, quan làng” đến “Phong tục cổ truyền, đội mũ, quàng khăn” đẩy qua “tham dự phiên tòa” Còn Phú và “ăn tối” là hình ảnh cụ thể, sinh động của một hủ tục cũ tàn ác, mang dáng dấp của sự tàn ác thời trung cổ ở miền sơn cước.
Phiên tòa diễn ra trong khói thuốc phiện “Từ trưa đến tối, hàng chục người hút”. “Mỗi lần bọn quan cai hút thuốc phiện xong, A Phủ phải quỳ giữa nhà và người ta xô đẩy, đánh đập. Mặt Fu sưng vù, môi và mắt thâm tím, chảy máu”. “Sau một loạt trận đánh đập, nói tục, chửi bới, lại hút thuốc”. anh là vậy, càng đánh càng chửi, hút thuốc càng nhiều.” Đó là một vụ việc thực sự man rợ, tàn ác.
Không chỉ bị đánh tơi tả mà A Phủ còn phải “trả tiền phạt”. Nó có ba tầng “trả tiền phạt” : vì người mà đánh (A Sử); “đưa cho quản lý năm đồng, mỗi người hai đồng, mỗi đứa đi gọi quan làng đến kiện năm đồng”; vì “quả quýt hun khói từ hôm qua đến giờ”, “anh ta mất một con lợn hai mươi cân, chẳng mấy chốc đã mổ quýt của làng để ăn”. Có thể nói A Phủ đã phải mang đủ thứ gánh nặng “đền bù” sự vô lý của phiên tòa, trong đó có khoản “tiến cử phí” cho những người chỉ đến xem “phiên tòa” của họ mà không một lời bào chữa, không một lời bào chữa. Vô lý hơn nữa là khoản “phí hưởng thụ” mà A Phủ phải nộp để cho bọn quan tự “ăn kiện”. Đó là một hủ tục vô cùng lạc hậu, phản nhân văn và vô nhân đạo. Nó là sản phẩm của một ý thức ngu dốt đã ăn sâu vào tiềm thức của người dân cao nguyên Tây Bắc. Đến với A Phủ, một thanh niên dũng cảm, kiên trung, anh chấp nhận điều đó vô điều kiện.
Ở đây, sự chấp nhận ấy không chỉ ở thân phận và thân phận dì ghẻ của A Phủ, mà còn xuất phát từ tâm thức đã in sâu bao đời nay trong tâm trí của A Phủ và nhiều người khác. Không phải vì sau “phiên tòa” A Phủ, chứ không phải ai khác, tự tay mình cầm dao thái thịt lợn từ những chiếc chân khập khiễng dành riêng cho những kẻ “đánh hội đồng” mình, là người đã làm. bây giờ anh ta trở thành nô lệ của thống đốc.
Như vậy, có thể nói trong một con người có hai A Phủ đối lập nhau: một A Phủ mạnh mẽ, bất khuất và một A Phủ ngoan ngoãn. Khuôn mặt đầu tiên là biểu tượng cho sức mạnh, vẻ đẹp vật chất và tinh thần của người dân lao động vùng núi rừng Tây Bắc. Cái sau là hiện thân của nỗi đau bị chà đạp, ý thức thô sơ, hoang dã. Hai nét tính cách này vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau và đây chính là cội nguồn của sự vận động, phát triển bên trong của hình tượng A Phủ, là hành động giải thoát khỏi thống lí Pá Tra. sự phát triển đó.
Càng bị hành hạ, bóc lột, A Phủ càng sống mãnh liệt và khao khát tự do.
Cùng số phận và sự phát triển nhân cách như Mị, A Phủ không hề mất đi sức sống tiềm tàng mãnh liệt của những đứa trẻ tự do của núi rừng. Cuộc sống địa ngục trần gian trong nhà thống lí Pá Tra cũng không thể dập tắt được ngọn lửa ham sống trong A Phủ. Nhẫn nhịn, nhẫn nhục chỉ tạm thời làm cho ngọn lửa ấy bớt cháy chứ không thể dập tắt được. Do đó, ngay khi một cơn gió lạnh thổi qua, nó lại bùng cháy dữ dội. Vì để cho hổ cướp mất bò, A Phủ bị “trói vào cây sào ở góc nhà bằng một sợi dây mây quấn từ chân đến vai”. Tôi đã trải qua loại chấp trước tàn ác đó, nỗi đau thể xác mà nó mang lại. Tô Hoài thông qua Cảm nghĩ của Mị để gián tiếp miêu tả nỗi đau và tình thế nguy kịch của A Phủ: “Trời ơi, nó làm người ta chết mất. […]. Biết đâu đêm mai lại có thêm một người chết, chết đau, chết đói, chết rét.” Nhưng chính giây phút trước cái chết ấy, nhà văn A Phủ đã cho mọi người thấy sức sống mãnh liệt như thế nào.
Phú bắt tôi cắt hết dây thừng, dù “quỳ”, đôi chân “không đi được” nhưng A Phủ vẫn “vùng vẫy” và “chạy”. Bốn chữ “đấu tranh đứng dậy” đã thể hiện sức mạnh kiên cường, khả năng đứng dậy sau nỗi đau của A Phủ. Sức sống tiềm ẩn được bảo tồn trong con người A Phủ đã được đánh thức. Lòng ham sống, khát khao tự do trong anh được đánh thức. Tất cả đã cộng hưởng với nhau tạo nên nguồn sức mạnh to lớn giúp A Phủ thoát khỏi thế giới ngục tù của nhà thống lí để tìm đến một chân trời mới tự do.
Như vậy, cùng với Mị, nhân vật A Phủ đã thể hiện một cách sinh động và chân thực những nét tính cách của người dân lao động miền núi nói chung, người Mông nói riêng. Đó là những con người có vẻ ngoài trầm lặng, ít nói, kiên nhẫn nhưng bên trong lại sôi nổi, mạnh mẽ với khát vọng sống, tự do và hạnh phúc. Tuy nhiên, khác với Mị – được miêu tả chủ yếu theo phong cách “hướng nội” – A Phủ được miêu tả theo phong cách hướng ngoại. Nếu ở Mỵ, nhà văn miêu tả sức sống mạnh mẽ tiềm ẩn qua đời sống nội tâm thì ở A Phủ sức sống ấy được “ngoại hiện” ở mỹ nam qua hành động mãnh liệt, dứt khoát, lời văn hùng hồn, hùng hồn. UA Phu, ta cũng thấy Tô Hoài đã có những khám phá thú vị về những nét tính cách độc, lạ của nhân vật: trầm lặng mà dữ dội; đơn giản nhưng rất mãnh liệt; và đặc biệt phóng khoáng, tự do, hồn nhiên như núi rừng Tây Bắc Tổ quốc. Điều này đã góp phần tạo nên một A Phủ độc đáo, “con người này” bên cạnh hình tượng trung tâm của truyện – nhân vật Mị.
Sợi dây Đây là câu chuyện của một cặp vợ chồng người Mông ở vùng núi cao Tây Bắc mấy chục năm trước. Tuy nhiên, nhiều câu hỏi đặt ra từ câu chuyện này không chỉ là chuyện của hôm qua, mà còn là chuyện của hôm nay. Từ sức sống mãnh liệt của nhân vật A Phủ và nhân vật Mène, nhà văn Tô Hoài muốn nhắn nhủ: con người sống là phải sống, không thể sống mà chết. Đó không chỉ là vấn đề “sống” mà là “làm thế nào để sống”. Cuộc sống tự do, hạnh phúc cho mọi người – chân lý tưởng chừng đơn giản ấy lại vô cùng khó khăn và sẽ không bao giờ có được nếu con người không đấu tranh để loại bỏ các thế lực bạo tàn, những hủ tục lạc hậu còn tràn ngập xã hội.
Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị