
Thể thơ được sử dụng trong ca dao.
Các thể thơ trong ca dao hay còn gọi là thể thơ dân tộc bao gồm thể thơ lục bát Và biến thể lục phương, Bài hát Lục bát Và Song Thất Lục Bát Biến, thơ tổng hợp (dùng kết hợp tất cả các thể thơ trên).
song thất lục bát và lục bát biến thể.
sáu tám là thể thơ gồm một câu 6 chữ (câu đối) và một câu tám chữ (câu đối). Các câu có vần, có nhịp, cứ thế nối tiếp nhau cho đến hết bài. Một bài thơ lục bát có ít nhất 2 câu và không hạn chế số dòng trong một bài thơ.
thân lục giác số tiếng trong mỗi dòng không thay đổi, vị trí vần cố định: vần cuối câu sau ứng với vần thứ sáu câu bát tám, vần thứ tám câu bát giác ứng với vần thứ sáu câu sau. Nhịp thông thường là 2/2/2, đôi khi chuyển thành 3/3/3 hoặc 4/4.
Ví dụ:
Bây giờ / mận mới / hỏi đào
Vườn hồng có ai hay không?
Mận hỏi / thì đào / xin
Người làm vườn hồng / có lối vào / nhưng chưa có ai vào.
Nhịp điệu của câu thơ hộp đựng linh hoạt, cực kỳ linh hoạt. Ngoài ra, với tác phẩm không giới hạn, không giới hạn độ dài, ngắn (số lượng các cặp song ca tùy thuộc vào tác giả), lục bát có khả năng biểu đạt giàu cảm xúc. , thể hiện một biến thể của Lục Bát, theo Mai Ngọc Chu : “Ở đây, sáu biến thể được quan niệm là những nội dung hết sức đa dạng của thực tại. Ca dao có thể lục bát nhưng không chặt chẽ “trên sáu dưới tám” mà có sự co giãn nhất định về số âm tiết (tiếng)”.. Có ba loại biến thể hình lục giác:
Đường màu xanh lá cây thay đổi và đường tàu vẫn giữ nguyên:
Ví dụ:
Tưởng giếng sâu nối sợi dây dài
Hay nơi giếng cạn, xin tha sợi dây.
(7/8 giờ)
Dòng xanh giữ nguyên, dòng tô thay đổi:
Ví dụ:
Lời nguyền trước và sau,
Anh không muốn rời xa em, đừng tham lam mà rời xa anh.
(6/12 giờ)
Cả hai dòng thay đổi:
Ví dụ:
Kéo nhau leo ba núi,
Năm châu cũng bước qua sông, cũng có những đoạn đường hiểm trở.
(7/10 giờ)
Chức năng của thể thứ sáu-thứ tám trong việc thể hiện nội dung: phê phán, châm biếm, bộc lộ khó khăn và quyết tâm vượt qua trở ngại, châm biếm, trào phúng, tranh luận, đấu khẩu.
Song thất lục bát và song thất lục bát biến thể.
Song thất lục bát là hình có nguồn gốc từ ca dao, nhưng không phổ biến bằng hình lục giác. Dạng này sau hai câu kết là hai câu lục bát (7+7+6+8 tiếng). Thể thơ này nói về sự trở lại của cảm xúc khi những con sóng dâng lên rồi hạ xuống rồi lại tản ra để đón một con sóng khác.
Ví dụ:
Những đám mây trên bầu trời trải khắp xung quanh
Bên ngoài, biển động tứ phía.
Làm thế nào để hòa giải vợ chồng,
Đây là chồng, đây là vợ bỏ đi theo hai vợ chồng.
Bài hát bảy sáu tám biến thể là thể thơ mà số tiếng trong câu tăng dần.
Ví dụ:
Ai trắng như bông lòng tôi không yêu
Một người da đen và giòn, cày ruộng tôi yêu,
Biết dạ dày có vấn đề,
Để em tìm cách chơi.
Thể hỗn hợp, còn được gọi là thơ tự do
Làm thế nào để bạn biết rằng con đường không hoạt động?
chuông không reo
Lắng nghe bao nhiêu bạn nói chuyện,
Để trái tim băn khoăn ở chiều đau thứ chín.
Hai câu ngũ âm và một cặp lục bát.
Ví dụ:
Chiều trước bến Vân Lâu
Ai đang ngồi và ai đang câu cá?
Ai buồn?
Ai nhớ ai đang xem
Thuyền ai nhìn ra sông
Đưa mái đẩy luống nước non.
Các bài văn trên gồm một câu sáu chữ, bốn câu bốn tiếng, câu đối lục bát.
Trong tất cả các thể thơ thể thơ lục bát chiếm số lượng rất lớn và trở thành thể thơ dân gian tiêu biểu nhất.
Thuyết minh về câu thơ truyền thống dân tộc từ sáu đến tám