
Thuyết minh về Di tích Thành Bản Phủ tỉnh Điện Biên
Điện Biên vùng biên giới, nơi dệt nên trang sử hào hùng của đất nước. Mảnh đất Điện Biên không chỉ nổi tiếng với chiến thắng Điện Biên Phủ của quân và dân ta đánh thắng thực dân Pháp “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, nơi đây vào thế kỷ thứ 8 người anh hùng Hoàng Công Chất đã từng lãnh đạo nhân dân đánh bại các cuộc xâm lược lãnh thổ của bọn quan lại Trung Quốc để giữ bờ cõi. Thành Bản Phủ là một trong những chứng tích hào hùng còn lại cho đến ngày nay.
Thành Bản Phủ là pháo đài do Hoàng Công Chất xây dựng ở phủ Ninh Biên, do An Tây cai trị làm kinh đô khởi nghĩa. Thành Bản Phủ thuộc xã Noong Hẹt, huyện Điện Biên, cách thị trấn Điện Biên Phủ khoảng 9 km.
Đầu thế kỷ 18, giặc Phế hay còn gọi là giặc Biểu Vàng, tàn dư của cuộc khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc ở Vân Nam Trung Quốc vào thế kỷ 18, từ phía bắc tràn xuống vùng Mường Thanh, cướp bóc, giết chóc. làm hại người tốt. Đứng đầu quân giặc cỏ là tướng Pha Chau Tin Toong. Khi chiếm được Mường Thanh vào khoảng năm 1740, chúng đóng quân ở thành Tam Vạn rồi cướp bóc đến tận Thuận Châu (Sơn La).
Năm 1754, sau khi lãnh đạo cuộc khởi nghĩa nông dân chống Lê – Trịnh ở vùng đất Thái Bình ngày nay, thủ lĩnh Thái Bình là Hoàng Công Chất đã dẫn quân khởi nghĩa lên vùng Tây Bắc, liên kết với hai tướng địa phương. , tướng Ngải, tướng Khánh đã lãnh đạo nhân dân đánh bại quân Phế xâm lược, giải phóng hoàn toàn Mường Thanh. Sau khi đánh tan giặc, Hoàng Công Chất đóng quân ở thành Tam Vạn nhằm xây dựng vùng Mường Thanh thành căn cứ lâu dài.
Năm 1758, Hoàng Công Chất quyết định xây thành Bản Phủ kiên cố và vững chắc hơn thành Tam Vạn để làm kinh đô dẹp loạn. Đến năm 1762, thành Bản Phủ hoàn thành.
Thành rộng hơn 80 ha, được xây dựng theo hình thức rất linh hoạt, tận dụng thiên nhiên và địa hình. LỜI ĐỀ NGHỊThành dựa vào sông Nậm Rốm. Iskrena rộng 15m, tường rộng 5m, cao 15m; Ngựa và voi có thể đi lại dễ dàng. Tường thành đắp bằng đất; trồng 30.000 gốc tre gai đưa từ miền Tây Thanh Hóa vào. Chiều rộng của rãnh là 4-5 mét. Thành có 4 cửa: trước, sau, tả, hữu. Mỗi cổng đều có quân đồn trú và tháp canh cao. Bên ngoài thành, bốn phía đều trồng nhiều loại tre ngà có gai cong như ngà voi để làm lá chắn cho thành.
Năm 1767, tướng quân Hoàng Công Chất qua đời, để tỏ lòng biết ơn người anh hùng đã góp phần đánh tan giặc ngoại xâm, đem lại thái bình cho nhân dân, nhân dân Mường Thanh đã lập đền thờ các vị thần Hoàng Công Chất và 06 vị thần. Các vị Công thần: Lộ Ngải, Bạc Cầm Khanh, Hoàng Công Toản, Bun Phánh, Vũ Tá, Nguyễn Hữu, gọi chung là đền Hoàng Công Chất.
Đền Hoàng Công Chất được xây dựng ở trung tâm kinh thành, thờ họ Hoàng và 6 thủ lĩnh khởi nghĩa. Khi mới xây dựng chùa có 02 gian, mái lợp bằng cỏ tranh nên có thời kỳ người dân đốt rẫy, sau được tôn tạo khang trang, tường gạch, mái lợp ngói. Người ta trồng ba cây đa, si, cùng một gốc trong chùa để thể hiện tình đoàn kết đồng bào miền núi. Từ cấu trúc của ngôi đền đến cách trang trí của ngôi đền đều có sự kết hợp hài hòa giữa văn hóa Thái và Kinh, mặc dù ngôi đền được lãnh đạo bởi người Thái địa phương. Trong chùa treo chuông, bàn thờ trang trí đèn, hai bên bàn thờ trang trí đôi hạc đứng trên lưng rùa đồng. Ngôi chùa còn là nơi tín ngưỡng của nhân dân vào những ngày rằm, đầu xuân năm mới, đặc biệt là ngày lễ cổ truyền 24 và 25 tháng 2 âm lịch hàng năm.
Thành Bản Phủ và đền thờ Hoàng Công Chất với những dấu tích còn lưu lại đến ngày nay vẫn còn giá trị về lịch sử, văn hóa và khoa học. Mặc dù Thành đã bị phá hủy phần lớn sau khi quân Trịnh vào chiếm đóng nhưng sau ngày Điện Biên được giải phóng năm 1954, Đảng và Nhà nước đã quan tâm đầu tư tu bổ, tôn tạo các công trình di tích để ghi công các chiến sĩ. đồng thời đây là điểm sáng trong lịch sử đấu tranh bảo vệ biên cương Tổ quốc của dân tộc ta.
Di tích Thành Bản Phủ và đền thờ Hoàng Công Chất là bằng chứng về cuộc chiến đấu của nhân dân các dân tộc dưới sự chỉ huy của Hoàng Công Chất đánh tan giặc ngoại xâm, giữ nguyên bờ cõi, biên cương. Khu di tích còn thể hiện tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Hoàng Công Chất, nhân dân các dân tộc nơi đây đã đoàn kết một lòng đánh đuổi kẻ thù chung ra khỏi bờ cõi Tổ quốc, cùng nhau xây dựng Bản, mường ấm no. của hạnh phúc. Thành Bản Phủ ngày nay và đền thờ Hoàng Công Chất là một trong những di tích nổi tiếng ghi dấu mốc lịch sử quan trọng trong công cuộc chống giặc ngoại xâm bảo vệ vững chắc biên cương quê hương của Hoàng Công Chất và phiến quân Hoàng Công Chất. người Tây Bắc.
Khu di tích còn là trường học cách mạng lớn, nơi tuyên truyền, giáo dục các thế hệ người Việt Nam về truyền thống anh hùng, truyền thống lâu đời của dân tộc Việt Nam. Sự hy sinh của đồng bào các dân tộc anh em vì chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam sẽ mãi mãi được ghi vào những trang sử vàng chói lọi nhất.
Năm 1981, sau khi thành Bản Phủ được công nhận là di tích cấp quốc gia, được nhà nước đầu tư kinh phí và hỗ trợ sự đóng góp của nhân dân nên ban đầu ngôi đền được tôn tạo một số hạng mục nhưng không làm mất đi đường nét xưa cũ, tôn nghiêm. tủ trưng bày ly rượu tuyên thệ, thanh kiếm, chiếc mũi cắt cụt của quân phản loạn, bản đồ thành Bản Phủ, v.v. Các cổ vật này cần được các cơ quan chức năng sưu tầm hoặc phục chế, trưng bày trong nhà trưng bày, bổ sung thành di vật để phục vụ khách tham quan, nghiên cứu.
Thành Bản Phủ và đền thờ Hoàng Công Chất là di sản văn hóa quý báu, là niềm tự hào của đất nước ta nói chung và nhân dân Điện Biên nói riêng, góp phần tích cực vào mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh; là tài nguyên du lịch, điểm đến trên đường về nguồn của du khách khi đến thăm Điện Biên. Trải qua thời gian, di tích đã xuống cấp nhưng vẫn chứa đựng hồn thiêng của đất trời, sông núi, thấm nhuần sức lực, trí tuệ, mồ hôi và xương máu của bao thế hệ tiền nhân, minh chứng cho cả một quá trình thăng trầm. lịch sử của dân tộc. Thành Bản Phủ – Đền thờ Hoàng Công Chất đã thực sự trở thành nơi giáo dục truyền thống cho du khách thập phương.