
thơ trào phúng
tài liệu:
1. Con cò bơi bên hồ
Này đào[1] kết hôn với chú tôi?
Chú tôi uống rượu hay tăm xỉa răng[2],
Hoặc trà đậm, hoặc một giấc ngủ ngắn.
Ngày muốn ngày mưa[3].
Vào ban đêm tôi muốn những đêm trống rỗng[4].
2. Không giàu thì nghèo
Ngày ba mươi Tết, trong nhà treo thịt.
Số phụ nữ có cha và mẹ
Mẹ cô là phụ nữ, bố cô là đàn ông.
Số phụ nữ đã kết hôn,
Sinh con đầu lòng không gái thì trai.
3. Con cò chết trên cây,
Con cò non mở lịch xem ngày thần.
Ca cường uống rượu la đà,
Một con chim hót líu lo bò ra để lấy một phần.
Xin chào, đánh trống,
Ca sĩ cởi trần, đeo mỏ để quảng cáo cho mình.
4. Nó giấu mũ lông gà,
Ngón tay bản địa được gọi là cai.
Ba năm họ đi lầm đường,
Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê.
Đọc thêm:
1. Ngắn mạch dừng quay cheng,
Chú gà trống thiến dành tặng cô giáo.
Cơm nếp đầy ắp,
Ngủ quên, thánh thất của thầy mất!
2. Con mèo trèo cây cau,
Chú Chuột hỏi.
Chuột đi chợ xa.
Mua mắm mua muối về giỗ cha mèo.
3. Nghe đồn tướng có tên
Chỉ cần cưỡi ngựa là không kiêng
Bạn khen nó: Nó mới
Tặng áo hai xu
Nếu bạn đang chiến đấu với kẻ thù, bạn gặp phải một nàng tiên
Lao vào trận chiến để loại bỏ khố của kẻ thù
Giặc sợ, giặc bỏ nhà đi
Về kêu mẹ mổ gà
thăm dò ý kiến:
Có tin đồn rằng hiện trạng có tiếng
Chỉ cần cưỡi ngựa là không kiêng
Vua khen tướng tài
Tặng áo hai xu
Nếu bạn đang chiến đấu với kẻ thù, hãy chạy trước
Anh lao vào trận chiến để hạ thuổng của kẻ thù
Giặc sợ, giặc bỏ nhà đi
Về kêu mẹ mổ gà
Ghi chú:
[1] Cô gái mặc yếm đào (yếm: đồ lót của phụ nữ thời xưa).
[2] Tử: rượu; tăm: bọt hóa vàng; Đây là một hoán dụ, được sử dụng cùng với từ “liu” để chỉ rượu.
[3] Tôi không nghĩ mình phải đi làm.
[4] Mỗi đêm có năm canh, sau mỗi canh có một chỗ trống; Mong có nhiều (thêm) đêm trống để ngủ thêm.
Nguồn:
1. Nguyễn Xuân Kính, Đặng Nhật Phan, Kho tàng dân ca Việt Nam, Nxb Văn hóa – Thông tin, 2001.
2. Mã Giang Lân, Tục ngữ và Ca dao Việt Nam, Nxb Giáo dục, 1999 (tái bản lần thứ 5)
3. SGK Ngữ văn 7 (tập I), NXB Prosveta, 2005.
I. Đọc hiểu:
Câu hỏi 1: Bài 1 “giới thiệu” về “chú tôi” như thế nào? Hai dòng đầu tiên có nghĩa là gì? Bài này châm biếm hạng người nào trong xã hội?
câu thơ thứ 2: Bài 2 nhại Ai Nói Với Ai? Bạn nghĩ sao về lời nói của thầy bói? Bài thơ này phê phán hiện tượng xã hội nào? Hãy tìm những câu ca dao khác có nội dung tương tự.
câu hỏi 3: Mỗi con vật trong bài 3 tượng trưng cho ai, hạng người nào trong xã hội xưa? Thật thú vị làm sao khi chọn những con vật để miêu tả, một “vai diễn” như vậy? Khung cảnh trong bài có phù hợp với một đám tang không? Bài thơ này phê phán, châm biếm điều gì?
câu hỏi thứ 4: Ở bài 4, chân dung “chàng cai” được miêu tả như thế nào? Em có nhận xét gì về nghệ thuật trào phúng của câu ca dao này?
* Nhớ:
Những câu châm biếm đã thể hiện khá tập trung đặc điểm của trào phúng dân gian Việt Nam. Những câu thơ trào phúng này phơi bày những sự thật mâu thuẫn, phê phán những thói hư tật xấu của những con người, những thứ lố bịch trong xã hội. |
II. Luyện tập.
Câu hỏi 1: Nhận xét về điểm giống nhau của 4 câu ca dao, em đồng tình với điểm nào?
câu thơ thứ 2: Những câu thơ trào phúng này có điểm gì giống với truyện cười dân gian?
* Viết bài:
thơ trào phúng
Câu hỏi 1:
“Giới thiệu” chú tôi đi cầu hôn, bức chân dung gồm mấy nét châm chọc, mỉa mai như sau:
– “Hoặc rượu hoặc tăm”: nghiện rượu.
– “Hay chè đậm” là nghiện chè đậm.
– “Cún ngủ” và khao khát “những ngày mưa” vào ban ngày, ban đêm khao khát về một “đêm vắng”, phụ thuộc vào giấc ngủ.
→ Như vậy, rõ ràng “chú tôi” là người có nhiều khuyết điểm, uống rượu chè lại càng lười. Thông thường, khi giới thiệu một tác phẩm có duyên, người ta phải nói hay. Nhưng ở đây thì ngược lại. Đó là cách nói ngược lại của “chú tôi”.
câu thơ thứ 2:
– Bài 2 bắt chước lời thầy bói. Ở đây, lời của thầy bói là mơ hồ, nói điều hiển nhiên. Tuy nhiên, các thầy bói lại dùng trò trẻ con này để đánh lừa những người cả tin. Bài thơ dùng lời của chính thầy bói để bộc lộ bản chất của thầy bói. Đó là nghệ thuật “gậy ông đập lưng ông” để gây tiếng cười châm biếm sâu cay.
– Bài ca dao này phê phán những kẻ hành nghề mê tín dị đoan, lừa đảo, lợi dụng sự non nớt của người khác để kiếm tiền. Đồng thời, ông châm biếm những kẻ mê tín mù quáng, ngu dốt như một thầy bói ngu dốt.
– Các bài hát có nội dung tương tự:
Lại nhấp nháy, cheng cheng,
Chú gà trống thiến dành tặng cô giáo.
Một khi bạn làm xôi, bạn sẽ no
Ngủ quên, thánh thất của thầy mất!
câu hỏi 3: Ý nghĩa tượng trưng của loài vật: Để hiểu được ý nghĩa tượng trưng của loài vật trong ca dao, cần tìm hiểu phong tục tập quán, luật lệ của đời sống làng quê ngày xưa.
+ Con cò tượng trưng cho người nông dân trong xã hội có thân phận thấp hèn.
+ Cả cường là những người có chức vụ, địa vị trong làng như xã trưởng, lí trưởng
→ đến đám tang uống rượu say.
+ Chimri, chào mào là những người hầu cận của xã trưởng, tù trưởng như: cai lệ, binh lính – kiếm được và chia nhau.
+ Pehar là anh đi rao làng.
– Sở thích chọn con vật đóng vai:
+ Làm cho cảnh sinh động, thú vị. Xã hội loài người được hình thành thông qua xã hội loài vật.
+ Mỗi con vật đều có những hành động và đặc điểm riêng phù hợp với kiểu người mà nó đóng.
+ Ý nghĩa phê phán trở nên ẩn sâu.
– Nhận xét về cảnh trong ca dao.
+ Khung cảnh không phù hợp với đám tang – chủ yếu là của những người đến dự đám tang.
+ Gia đình cò lâm vào cảnh khốn cùng: bố mẹ cò chết trên cây, cò còn lo chuẩn bị mọi thứ cho đám tang – còn những con khác thì tranh nhau kiếm ăn, chia chác. , xốc xếch bừa bãi.
– Ý nghĩa phê phán của câu ca dao: Phê phán những hủ tục ma chay phi lý khiến con người phải đau khổ.
câu hỏi thứ 4: Ở bài 4, chân dung “anh cai” được miêu tả với những đặc điểm sau:
– Đội “mũ chít”: chi tiết này chứng tỏ ông là kẻ sĩ, là người có “quyền lực”.
– “Ring”: chi tiết này cho thấy dường như cô nàng đang muốn đưa ra lời khẳng định.
Tuy nhiên, quần áo thì phải “mượn”, “thuê”. Thật đáng thương cho một người “quyền lực” như vậy. Hóa ra cái “uy quyền” của anh chỉ là khoác lác, cố tỏ ra để đánh lừa thiên hạ.
Tính chất trào phúng của câu ca dao này thể hiện ở mấy điểm:
– Tác giả dân gian gọi cai lệ là “thằng” vừa để lấy lòng, vừa như thể có ý mỉa mai kín đáo để xếp vào loại thằng lười.
– Cách định nghĩa cậu cai ở hai dòng đầu, tác giả dân gian mím môi bảo, đội nón đeo nhẫn, thế là cai thành chứ cai là gì.
– “Ba năm lầm một chuyến” là nghệ thuật nói phóng đại. Ý tôi là, không mấy khi anh ấy đi nhầm “chuyến đi”. Và vì quần áo không được mặc thường xuyên nên không cần phải chuẩn bị sẵn sàng làm bất cứ điều gì, và “mượn” hoặc “thuê” nếu cần thiết. “Áo ngắn mượn, quần dài thuê” cũng là một cách nói cường điệu để tô điểm cho sự hiếm hoi trên.
II. Luyện tập
Câu hỏi 1: Nhận xét về sự giống nhau của bốn câu ca dao, trong các ý kiến trên, tôi đồng ý với ý kiến sau:
c) Cả bốn bài đều có nội dung và nghệ thuật trào phúng.
câu thơ thứ 2: Ca dao trào phúng nói trên và truyện cười dân gian giống nhau ở chỗ đều lấy thói hư tật xấu của con người để cười nhạo, châm biếm, lấy tiếng cười làm vũ khí để xây dựng xã hội và con người ngày càng tốt đẹp hơn.